Huyền thoại AK-47 Mikhain Kalasnhicop Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi
Table of Contents Tựa sách SỰ NGHIỆP CỦA KALASNHICỐP CHIẾC ÁO LỌT LÒNG NHỮNG NĂM L[ LÍNH
CAVƠRỐP – CŨNG L[ “TULA” RA ĐỜI CỦA KHẨU AK-47 CHUYỆN RIÊNG TƯ NATASA BỨC THƯ CỦA GASA
MƠ V[ THỰC CHIẾC “HỘP ĐEN” CỦ A TÔI
SAU “PH\T SÚNG TRONG ĐÊM TỐI” CHUYẾN THĂM TRUNG QUỐC BAY SANG ACHENTINA LẠI SANG MỸ CUỘC SĂN LÙNG KALASNHICỐP
“VỊ TƯỚNG GI[ ĐẦU BẠC VẪN C[Y V[ C[Y…”
SỰ NGHIỆP CỦ A KALASNHICỐP
Cái nhìn c ủa anh ta đầy bí hiểm. Trong các cu ộc nói chuyện tôi thường cảm thấy ngoài sự kính trọng sâu sắc đặc biệt; ngoài mối thiện c ảm hầu như vô tận, thườ ng có ở thế giới Ảrập phương Đông, trong mắt anh ta còn ẩn giấu không chỉ mối quan tâm chân thành mà c ả nỗi buồn thân ái. Mọi chuyện cùng một lúc đ~ được giải thích rõ. Hầu như v{o những giây phút cu ối cùng của cu ộc chia tay ở sân bay Ero-riiat, c ặp mắt của người thiếu tá bảnh trai bỗng sáng bừng lên anh nói hăng h|i, sôi nổi. Ngườ i phiên dịch đầy kinh nghiệm của chúng tôi ph ải cố gắng lắm mới dịch kịp: “Thưa ng{i Kalasnhicốp, có khi n{o ng{i nghĩ rằ ng ngài cần phải thay đổi tín ngưỡng không?… Theo khái niệm của Kitô giáo thì ngài là m ột kẻ phạm t ội ội vĩ đại… Ng{i phải chịu trách nhiệm v ề hàng ngàn, hàng vạn các vụ gi ết người trên khắp th ế gian n{y. Đị a ng ục t ừ l}u đ~ gi{nh sẵn chỗ cho ngài r ồi. Ngài sẽ không được tha thứ, dù cho có nhi ệt tâm cầu kh ấn nhà tiên tri Chúa Giêsu c ủa ngài. Có phải th ế không? Ch ả l ẽ ngài lại đồng ý thế ư? Nếu ng{i theo đạo Hồi, thì l ại là chuyện khác. Ch ẳng giấu giếm gì, t ừ l}u tôi đ~ để ý t ới ngài, ngài là m ột tín đồ đạo Hồi chân chính. Thu ở sinh thời ngài sẽ trở thành ngọn c ờ c ủa c ả th ế gi ới Ảrập, đến khi thời h ạn trên trần th ế giành cho ngài k ết thúc,
Đức thành Ala sẽ đón tiếp ng{i như mộ t vị anh hùng. Ngài x ứng đ|ng được hưởng vinh quang ấy, thưa ng{i Kalasnhicốp! Đ}y không phải ý kiến c ủa riêng tôi. Các v ị tu sĩ cao siêu của chúng tôi cũng t|n th{nh ý kiến đó. Một v{i tu sĩ còn biế t những gì tôi vừa nói với ng{i… Lòng nh}n từ của Đức Ala là vô h ạn. Vâng, sẽ l{ như thế!” Mười năm về trước tôi đ~ “rửa t ội” trước khi ra nước ngo{i, tôi đ~ đượ c nghe không biết bao nhiêu nh ững câu nói không ng ờ t ới nhất, nhưng quả thực tôi không hề nghĩ tới những lời nói trên. M ột cách vô thức tôi dè dặt chuyển sang giọng nửa đùa: - Đ}y có phải là lời đề nghị chính thức không? Anh ta sôi nổi đ|p lại r ằng, tôi đ~ hiểu không cần phiên dịch. Người phiên dịch chỉ còn biết khẳng định một ý nghĩ đ~ tho|ng qua trong đầu tôi: “Ừ, hãy c ứ coi l{ như thế!”
Cũng như mọi người Nga, trong trườ ng hợp n{y để t ừ chối một cách lịch sự, tôi trì hoãn quyết định bằng một cách hứa hẹn với giọng biết lỗi. - Để tôi suy nghĩ ạ!
Người thiếu t| n}ng hai b{n tay để ngửa dưới cằm, mắt ngước lên bầu trời oi ả lầm nhẩm: “Ala achar!… Bimilliac!” C}u nói n{y tôi cũng hiể u không cần phiên dịch: “Lạy Đức Ala vĩ đại!… Ý nguyệ n của Người là t ất cả!” - Có lẽ anh phải suy nghĩ nghiêm túc thật đấy! – V ới v ẻ m ặt đăm chiêu cố ý, người phiên dịch còn khá trẻ t ỏ ra thông cảm, khi chúng tôi bước lên thang chi ếc “Boing”. Tôi nói m ột c}u đùa vui th}n |i mong l{m dịu đi ấn tượ ng nặng nề có thể gây ra bởi l ời tuyên bố khô, lạnh c ủa người thiếu tá Xêút về chỗ đứng chân sắp t ới c ủa tôi. Tôi bắt đầu phụ họa với anh ta: Tôi s ẽ nghiên cứu, tôi nói là, tôi s ẽ nghiên cứu vấn đề này. Chúng tôi ng ồi vào ghế, hoàn toàn hài lòng với nhau, và hài lòng v ới những ngày qua ở cuộc triển l~m vũ khí bộ binh ở Erơ-Riiat… Người phiên dịch cùng với các th{nh viên kh|c trong đo{n đ~ kị p nhấm nháp một, hai ngụm cônhắc mừng cho cất cánh an toàn, mừng cho thời tiết bay t ốt, giờ đ~ hòa v{o c}u chuyện chung, còn tôi, “tín đồ Hồi gi|o ch}n chính”, lại kiêng dè, v{ vô tình t|ch ra đơn độc. “Chị u trách nhiệm về hàng ngàn, hàng vạn các vụ giết người trên thế gian này…”. Có biết bao nhiêu l ời bu ộc t ội tương tự như vậy dành cho tôi th ời gian qua mà tôi phải đọc: bằng tiếng Nga và các b ản dịch tiếng nước ngoài, hoặc nghe trên rađiô, trên tivi và cả khi ngồi đối mặt với nhau. Th ế nhưng người phản đối tôi này, chỉ trong một
thời gian quen bi ết ngắn ngủi, nhiều lần tôi đ~ thấy rõ không ch ỉ là một chuyên gia sản xuất trong công vi ệc của mình, mà còn là một người có học vấn rộng. Khi nói chuyện về “tội lỗi” của tôi, anh ta đ~ khéo léo l|i c}u chuyệ n t ừ lĩnh vực đạo đức, tinh thần sang lĩnh vực thuần túy tôn giáo, m ột lĩnh vực m{ tôi cũng như nhiều đồng bào tôi không thiết tha lắm… V{ tôi không những không sẵn sàng tranh luận với anh ta, th ậm chí không dự định tiếp thu những điều anh ta nói ra v ới một biểu hiện đầy đủ. Nhiều người cùng thế hệ tôi, trong đó có tôi quan niệ m về vấn đề tôn giáo với m ột sự tôn kính thầm kín trong lòng, pha chút s ợ hãi. S ự tôn kính đó phần lớn ta có thể hiểu đó l{ sự n ối ti ếp n{o đó với khái ni ệm tôn vinh chính b ố m ẹ, t ổ tiên xa xưa của chính mình, và nói chung, v ới l ịch sử của T ổ qu ốc. Nhưng cuộc sống quá khứ không đơn giản chút nào với nh ững phương ch}m cứng nhắc, thường xuyên căng thẳng, có phần luôn phải c ố gắng n ỗ l ực th ực hi ện t ập trung hướng t ới một m ục đích, một v ấn đề cụ thể n{o đó, đ~ l{m ch o chúng ta trở thành những kẻ vô thần chính cống, đến mức chẳng có lúc n{o để nhìn vào một chân lý hiển nhiên là: không có Chúa Tr ời. Với một lòng đố kỵ vô thức và kèm theo là m ột n ỗi bu ồn vô thức, tôi thường suy nghĩ v{ t ự v ấn mình: thế ra mi chỉ thích thú duy nh ất có một vi ệc là thiết k ế súng ống à? Cái việc gây hại cho nh ững việc kh|c… Thú thật là, những ý nghĩ đó luôn ở trong tôi. Một ng{y trước khi rời Ijepesk để sang Ảrập Xêút tôi có m ời Tfgênhi Vaxilievich, một thợ nguội có kinh nghiệm, một trong những người tham gia đội chế t ạo AK-47 đầu tiên, lên phòng làm vi ệc c ủa tôi. Chúng tôi nói chuy ện v ề công việc xong xuôi thì Tfgênhi bỗng nhớ ra: “Tôi cứ nhớ mãi câu chuy ện mà các xạ thủ kể cho nghe. Có m ột đại t| đ~ luống tuổi t ừ M|txcơva đến thăm trường bắn. Tâm trạng ông không được vui, ông nói với các chiến sĩ thế này: trông các cậu xách khẩu súng máy mà chán, c ứ như thằng d ở hơi x|ch bị đi khất thực. C ầm súng phải cho ra cầm súng chứ! Giá mà được thấy khẩu trung liên khạc đạn trong chiến đấu!… Chiến sĩ Vôlôđia đ~ từ ng ở Apganixtan về, nói: Tốt hơn hết là bố không nhìn thấy cảnh n{y! Đặt cái chụp tai xuống, Vôlôđia đi khỏi. Hôm sau c ậu ta kể cho các bạn mình nghe trườ ng hợp cả một đơn vị qu}n ta rơi v{o ổ phục kích của địch. Như mọi khi, chúng ch ỉ có ba khẩu trung liên, súng chính do ta s ản xuất, thế m{ đè bẹp cả đội qu}n ta… Sau đó đi đế m, các cậu biết bao nhiêu xác ch ết không?… S|u mươi bảy!” Xong câu chuyện, Tfgênhi Vaxilievich c ứ nhìn tôi mãi, v ới cặp mắt thật buồn!… Thế đấy, t ừ l}u chúng tôi đ~ ở lứa tuổi mà mỗi người đ~ đến lúc phải nghĩ đến và chăm sóc phần hồn của mình.
V{ còn hơn thế nữa, nếu như cả đời, chỉ làm mỗi việc chế t ạo vũ khí giết người.
Như thế, chính người thiếu tá Xêút ấy, không biết mình đ~ gieo hạt v{o nơi đ~ được cày xới t ừ lâu. Người của ta đ~ rút khỏi \pganixtan, nhưng chiến tranh ở đó vẫn tiếp diễn. Gần đ}y, tôi đ~ được nghe kể rằng: Vẫn như xưa, trên khắp đất nướ c Ápganixtan, loại cửa hàng duy nhất mở cửa v{o “thứ sáu – thiêng liêng” l{ cửa hàng bán AK. H ầu như mỗi t ỉnh có thủ lĩnh riêng, m ỗi t ỉnh có luật l ệ riêng, nhưng có mộ t lu ật chung ấy là: riêng vũ khí bạn có thể mua cả vào ngày thiêng của Chúa. Gi| như người thiếu tá nó với tôi sớm hơn, thì thế nào tôi chả hỏi anh về những đặc điểm này của đạo Hồi ng{y nay… Hay l{ chính vì thế mà anh cố ý để lui câu chuyện mãi t ới phút cuối cùng? Tôi nhớ lại, c|ch đ}y mười lăm năm ở ngoại ô M|txcơva có mở một khóa huấn luyện sĩ quan cao cấ p cho các h ọc viên t ừ c|c nước xã hội chủ nghĩa v{ c|c nước đang ph|t triển, thực chất đ}y l{ cuộc hội t ụ các tinh hoa quân s ự của c|c nước Á-Phi thân thiện v ới ta. Tôi và các nhà thi ết kế vũ khí bộ binh chủ chốt kh|c được mời về giảng bài. Trong m ột lần giảng, chưa kịp kết thúc bài, thì m ột học viên châu Phi người săn chắc, tay cầm lá cờ nh ỏ: “Bộ trưởng quốc phòng Môdămbích”. Ông ta nói: “Tôi muốn cảm ơn v{ nhắc nh{ công trình sư đ|ng kính rằ ng: hình khẩu súng của ông được in trên lá cờ nước cộng hòa trẻ tuổi chúng tôi. “Khẩu súng” tượng trưng cho cuộc chiến đấu giành t ự do của chúng tôi – cu ộc chiến đấu chống l ại ách áp b ức của bọn đế quốc nước ngoài. Bên c ạnh khẩu súng là cuốn sách mở – tượng trưng cho cuộc đấu tranh ch ống nạn mù chữ, và cái cu ốc, tượng trưng cho sức lao động được giải phóng…”. Tôi thật nở gan nở ruột khi nhận vật kỷ niệm đầy ý nghĩa ấy…
Nhưng c|ch đ}y không l}u, theo yêu cầu của các cộng tác viên của Viện bảo tàng AK-47 tương lai (Việ n bảo t{ng đ~ được quyết định xây dựng ở thành phố Ijesk chúng tôi) tôi lục l ại gi ấy t ờ trong khu lưu trữ và toàn bộ v ật k ỷ ni ệm… Tôi tìm thấy lá cờ Môdămbích v{ bất giác thở d{i cay đắng. Có thể những bài báo táo b ạo những năm gần đ}y đ~ ho{n th{nh sứ mệnh của mình?… “Sự nghiệp của Kalasnhicốp v ẫn sống và chiến thắng: AK được in hình trên quốc huy của s|u nước”. “Cỡ 5,45, cỡ chết người: Ápganixtan – Bacu – Đubôxarư”. Sợi dây ch ỉ đẫm máu nối m ảnh đất Apganixtan, thủ đô Azécbaizan v{ th{nh phố nhỏ ở Môlđavia. Sợi chỉ này cuộn th{nh hình viên đạ n cỡ 5,45mm đang dùng cho khẩu tiểu liên Kalasnhic ốp…”., “Vật thiêng Kalasnhic ốp”; l{m thế n{o để dọa người dân trung lưu Nam Phi?… h~y chỉ c ần nói một t ừ – “Kalashicốp”, thế là sẽ có hiệu qu ả. Ở đ}y thậm chí còn xuất hiện một t ừ mới, đồng nghĩa với động t ừ giết người – “}y-k}y”
– “AK”…
Muốn hay không mu ốn, t ất cả những điều trên sẽ gắn với tôi m~i m~i như mả nh đạn cũ nằm trong người. Thường ngày ta bận r ộn, lao động v ất vả, lo }u suy nghĩ ta t ạm quên “nó” nhưng “nó” vẫ n cứ treo lơ lửng trong bạn, “đông cứng” trong mô thần kinh của b ạn t ừ l}u… Nhưng nếu nó bỗng nhiên “cựa qu ậy” dữ d ội? Đ~ có lần ngườ i Mỹ viết rằng “trung sĩ Nga vũ trang cho cả “khối V|csava”. Phải chăng những “công tích” ng{y nay của tôi thực sự phù hợp với quân hàm cấp tướng đang đeo? Những năm gần đ}y tên truyền hình Nga chi ến tràn ngập những bộ phim ít t ập, dài t ập, hoặc dài vô t ận kể về những “bố gi{” v{ về các cuộc thanh toán, phân chia khu vực đẫm máu của c|c băng đảng mafia quốc t ế. Xem những phim này tôi không chịu n ổi, thế nhưng đôi khi tình tò mò nghề nghiệp đ~ thắng thế. B ật kênh n{o cũng thấy c ảnh b ắn giết nhau khủng khiếp, thế m ột cách vô thức, tôi để ý xem bọn chúng, quân giết người ấy nó dùng “mẫu” súng n{o? Thôi thì không thiế u kiểu n{o, nhưng thằng trùm sỏ thì nhất thiết là dùng khẩu AK thân thuộc. Đôi lúc tôi nghĩ, nế u t ất c ả lũ qu|i thai n{y m{ tập trung lại với nhau, thì s ẽ thành một đội quan đông đả o biết bao nhiêu và khủng khiếp chừng nào! Thế nhưng những gì đang l{m xả y ra trong cu ộc sống thực ngày nay còn kh ủng khiếp hơn nhiều so với điện ảnh.
Năm 1941, tôi – anh lính xe tăng bị thương đi nằm viện. H{ng đêm tôi bị những cơn đau |c mộng giày vò. Sáng dậy, với t ờ giấy và cái bút chì trong tay, tôi v ẽ khẩu tiểu liên tương lai củ a mình, thế là quên h ết những giấc mơ đêm v{ dịu đi cả nỗi đau ng{y… Đ}y không chỉ là kiểu t ự vệ của riêng tôi, th ời đấy có biết bao chiến sĩ như tôi đ~ vùng đứng lên với niềm khát khao cháy bỏng được bảo vệ Tổ quốc! Lúc ấy tôi đ}u có nghĩ được bản thiết kế khẩu súng mới sẽ đưa những cơn |c mộ ng trở lại dưới dạng khác. Bây giờ nghĩ lại, cũng phải thôi, không th ể kh|c được. Thật bất hạnh nếu anh không có nghề nghiệp gì; không phải người l{m vườn, không phải kỹ sư nông nghiệp, không phải b|c sĩ thú y, như một trong những ông bạn thân của tôi… Còn tôi – người chế t ạo vũ khí – điều đó đ~ nói lên tấ t cả, rõ ràng. Ch ỉ có điều l{ trước kia tôi không nghĩ được rằng vị trí của người ta ở thế giới bên kia không ph ụ thuộc vào bản chất, tư c|ch c| nh}n, m{ phụ thuộc vào nghề nghiệp của anh ta. Có thể – tôi nghĩ – qu ả th ật l ối thoát duy nhất cho tôi l{ đạo Hồi?… Tôi không biế t, liệu đạo Hồi có c ứu rỗi được cuộc sống dưới âm phủ, – nếu như có cuộc sống ấy thật, – hay không. Nhưng nó có thể đảm bảo sự thanh thản trong lòng trên trần thế thì chính xác. Dù những ảo tưởng có xa vời đến mấy, con người ta lại thường hay xây dựng cho mình một ph|o đ{i m{ không một th ứ vũ khí n{o có thể đ|nh chiếm được. À, mà có thể, nếu ta nhìn kỹ hơn chúng ta với người Ảrập, quả thật, cũng hợp nhau?
Dù tôi l{ người Nga mắt xanh, nguồn gốc t ừ vùng Altai xa xôi tr ải d{i đến Cuban, chúng tôi vẫn là những người h ọ gần với nh ững người d}n miên núi Capcdơ, thế mà t ừ Capcadơ đến vịnh Pecxich, đến Iran, đến phương Đông Ả rập, nói chung ch ẳng còn bao xa. Có thể đ}y l{ bộ nhớ di truyền của tôi được truyền lại t ừ bộ nhớ đời cụ kỵ, làm cho nét mặt của người Ảrập có thiện cảm này xuất phát t ừ truyền thống quan hệ hữu hảo có t ừ h{ng ng{n năm? Con người bản tính vốn hữu hảo. Ở đ}y tôi chợt nghĩ: Phải chăng sự chăm sóc chân thành cho b ạn l{ không đ|ng quý?… Thế còn khi ở trong nước có ai nói và nói bao giờ tôi lần cuối về phần hồn?… Hay chúng ta l~ng quên?…Hay l{ không đượ c thừa nhận? Nói gì thì nói, ngươi thiế u tá Arập Xêút đ~ chạm vào nỗi đau của tôi: “Thủ tướng Aicập bị bắn chết bởi khẩu súng AK-47 Nga”. “Tên Kalas được đặt cho các bé trai m ới sơ sinh đang l{ c|i mố t ở Nam Phi”. Bạn thử nghĩ xem: c|c chú bé n{y l{ ai?… chúng l{ những đứa con bất đắc dĩ, không chờ đợi và ngoài dự đo|n của tôi. Hay ngượ c lại, là biểu trưng chung của sự tha hóa, côi cút tràn ng ập hành tinh? Thế còn bộ phim video “Kalasnhicốp đi săn” củ a các nhà báo Anh có giá trì gì? Giá như đổi lại cái tên thi sẽ phù hợp biết bao nhiêu. “Đi săn Kalasnhicốp”. Nhưng mọi uẩn khúc, mọi sự thật về bộ phim này, tôi và m ột số bạn tôi chỉ biết khi vô tình được chứng kiến cuộc thăm của những người làm truy ền hình t ừ đ{i BBC ở thành phố Ijepsk chúng tôi. Th ế nhưng nhiều người kh|c đ~ xem bộ phim n{y đều kh ẳng định, h{ng trăm triệu ngườ i xem truyền hình trên kh ắp các châu l ục đều chung nhau m ột ý nghĩ duy nhất: nhà sáng chế Nga này không chỉ là tên t ội phạm chiến tranh bất trị – mà còn là một con quái vật! Và dẫu sao thì sự kiện ở Erơ-riiat, cũng chẳng quan trọng gì, nhưng vẫn buộc tôi trước khi bay nước ph ải suy nghĩ lại nhiều v ấn đề, và bỗng dưng phải nhìn nhiều sự vật bằng con mắt khác. Không loại trừ chính cu ộc nói chuyện với người thiếu tá Ả-rập ở s}n bay đ~ trở thành giọt nước cu ối l{m tr{n đầy ước v ọng c ủa tôi muốn k ể lại c|c tư liệu v ề mình, về đồng đội, về Tổ qu ốc đau thương v{ về hành tinh chìm trong khói l ửa chiến tranh liên miên của chúng ta… Cuối cùng thì tôi cũng không chỉ nghĩ đến cá nhân mình. Trong dân gian v ốn vẫn có câu: Kiên nh ẫn là mẹ th{nh công. Nhưng do cuồng tín, chỉ cho mình là ph ải, chúng ta đ~ chia thế giới n{y th{nh hai phe ta v{ địch, còn chủ nghĩa vị kỷ qu|i đản đ~ đẩ y biết bao con người có nghị lực vào việc biến thiên đường trên tr|i đất thành hỏa ng ục chung cho m ọi người. Tôi b ắt đầu suy nghĩ về cu ốn h ồi ký t ừ đ~ kh| l}u, nóng lòng vì nó, đến nỗi gác lại t ất cả các công việc nào có th ể, để
ngồi vào bàn, bên t ờ gi ấy trắng, không phải để v ẽ lại m ột chi tiết n{o đó m{ để vi ết, viết… Trong suốt cuộc đời, tôi đ~ phải trả lời biết bao bức thư: h{ng trăm, h{ng ng{n người gửi đến tôi… Lúc ấy tôi nghĩ rằng, sao mình không c ố gắng viết một bức thư lớn, cùng một lúc gửi đến mọi người?
Nhưng trong cuộc s ống thường vẫn phải có những công việc và kế hoạch nữa. Lúc thì việc thiết kế lúc thì công vi ệc sản xuất đòi hỏi, muốn hay không muốn lại phải cho bản thảo vào cặp buộc lại, để lên đường xa làm nhiệm vụ. Trong nhi ều năm, trong ngăn kéo b{n, tôi để các trang viết về các thời kỳ khác nhau c ủa cuộc đời v{ c|c đoạ n văn r ồi được vi ết m ột hơi v{o những ng{y đau khổ không lối thoát, hoặc vào những lúc phấn chấn… Đến bao giờ tôi mới có thể h ợp nh ất lại nhưng trang viết đó, mới có thể “lắp r|p” c|c “phôi” đơn chiếc quý gi| đối với tôi này thành m ột “sản phẩm” ho{n thiện?… Đ ôi khi tôi cứ tưởng tượng rằng con đường để xuất bản cuốn h ồi ký cũng xa vời v{ đầ y trắc tr ở y như con đường để sản xu ất hàng loạt m ẫu vũ khí n{o đó. Mỗ i l ần tiêu phí mất bao nhiều thời gian! Nhưng khi đó tôi còn trẻ , chịu đựng được. Ước nguyện viết một tác phẩm văn học đặc biệt cháy bỏng trong tôi còn b ởi một sự ki ện đặc bi ệt: tôi làm quen với nhà nghiên c ứu l ịch s ử vũ khí Mỹ: Etrard Edward Clintơn Izel. Bạ n có thể tưởng tưởng tôi đ~ hồi họp thế nào khi cầm trong tay cuốn sách dày c ộp của ông: “Lịch sử khẩu tiểu liên AK-47”. Ngo{i bìa in dòng chữ “Hơn mười năm nh{ sử học quân sự E.C. Ezel ho ạt động trinh thám, luồn sau vào lớp vỏ bọc bí mật bao quanh cu ộc đời Kalasnhicốp”. Thế đấy, tôi nghĩ, mình có trong tay tất cả các quân bài – mà lại im lặng! Trong một b ức thư, Izel đề ngh ị: “Viện Smithson có ý đị nh xây dựng một b ộ phim video tư liệu khoa h ọc về những nhà phát minh k ỹ thuật hiện đại. Tôi mu ốn ông mời tôi sang bên để cùng trò chuyện với ông. Người của chúng tôi sẽ quay video cu ộc nói chuyện c ủa chúng ta. Nếu ông nhất trí, tôi rất mong được ông cho biết đặc điểm quá trình sáng t ạo để trở thành một nhà sáng chế, những động cơ, phương ph|p, điề u kiện làm việc n{o giúp định hướng tư duy v{ khả năng của nhà sáng chế. Ngoài ý nghĩa vê một khoa học và về con người, thì những hiểu biết về các linh vực trên sẽ có giá trị lớn trong việc giáo dục thế h ệ trẻ, và tôi chò r ằng nó cũng giúp cho việc thúc đẩy phát triển sự hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau giữa nh}n d}n hai nướ c chúng ta. Trong chương trình n{y đ~ qua y xong về Yougin Stoner m{ ông đ~ biế t. Có lẽ sẽ còn có các nhà ch ế t ạo vũ khí hiện đạ i xuất sắc khác nữa. Tôi không ngạc nhiên về t{i năng tổ chức của Edward, ông mang sang nướ c Nga một nhóm lớn cộng t|c viên được trang bị đến t ận răng những phương tiệ n kỹ thu ật
video, kỹ thu ật điện ảnh… tôi thường nghĩ đế n câu nói c ủa ông: có giá tr ị đối v ới th ế hệ trẻ.
Trong khi đó, thì một câu nói c ửa miệng của con cái chúng ta vẫn ng{y ng{y đập v{o tai ta: “Pepsi l{ sự lựa chọn của thế hệ mới!” Thế đấy…
Khi đ~ kết luận, Izel ép tôi viết cuốn sách về bản thân. Có một số đoạn tôi viết được là nhờ có sự kiên trì của con người không biết mệt mỏi này. Giờ thì ông không còn n ữa. Có thể ông mất vì làm việc qu| căng thẳng, mong muốn hết s ức để trong một thời gian không dư dật mà số ph ận đ~ d{nh cho ông l{m đượ c nhiều nhất. Lúc bấy giờ tôi đ~ viết xong chương “hộp đen”. Chương n{y kể về những ngày bi đ|t của gia đình tôi v{o những năm “bần cùng hóa nông d}n” v{ về một số các chi tiết thời thơ ấu c ủa tôi m{ trướ c kia bản thân tôi vì mục đích tự vệ không dám nhớ đến. Khi cuốn sách t ự b ạch đ~ được tin trên giấy, tôi c{ng suy nghĩ căng thẳng hơn: đ~ đến th ời được nói t ất c ả những gì đ~ xảy ra trong đời tôi chưa, có thể nói hết sự th ật chưa? V{ nó chung có c|i thời ấy hay không? Tuy nhiên thời gian, năm th|ng trôi qua không thể giữ kín mọi chuyện được mãi, ngược l ại b|o chí “Tự do” rất hăng h|i sục sâu vào nh ững năm m{ hoạt động c ủa tôi ho{n to{n được gi ữ kín: “B{n tay của Elsin đ~ vươn tới Kalasnhicốp”, “Con người và khẩu súng”, “Huyền thoại cuối cùng về kỹ thuật vũ khí”, “Kalasnhicốp – người Bỉ”, “Hạ giá quần |o cho người nghèo”.
Thư từ gửi cho tôi tăng đến mức không thể viết thư trả lời hết được, mặc dù tôi vẫn coi đó l{ tr|ch nhiệ m của mình Đ~ l}u lắm rồi, khi còn niên thi ếu, tôi đ~ l{m thơ, l{m nhiều thơ, s|ng tạ o cả những trường ca nữa. Lúc đó hình như tôi có biết thế nào là cảm hứng s|ng t|c… thế nhưng sự việc lại diễn ra theo hướng khác, sự nghiệp thơ ca cao cả đó lại giúp tôi trong những việc khác, hoàn toàn xa l ạ với thơ ca, thậm chí còn thù nghịch nữa l{ kh|c… Đ}u khoảng vào giữa những năm 60, một lần tôi được làm quen với m ột nh{ thơ nổi ti ếng, và hiện nay vẫn đang th{nh đạt. Chúng tôi nỏi chuyện r ất c ởi m ở, b ất ngờ tôi thú nhận với ông rằng tôi cũng l{m thơ… “Nghĩa l{ anh hiểu thế n{o l{ thơ Jambơ, thế n{o l{ thơ Côrê – Ông hỏi tôi với v ẻ h{i hước rõ r ệt – Thế còn các nhà chế t ạo vũ khí thích “tiết t ấu” n{o? Loạt ngắn? Hay loạt d{i?…”
Tôi thấy thích c}u nói đùa khéo ấ y và tôi hiểu rất rõ cái s ắc sảo trong c}u nói đó, thế nhưng còn cái giọng nói v{ c|i nhìn đầ y vẻ đắc thắng đó của ông ta…
V{, dù sao chăng nữa, tôi vẫn quyết định đưa t|c phẩm chưa đượ c hoàn thiện c ủa mình ra trước công chúng để phán xét. Hãy c ứ để ai đó cho rằng “loạt t ừ” qu| d{i, hoặc ngược lại có người cho rằng quá ngắn và ngắt quãng. Vấn đề không phải ở đ}y. Cái chính là tiếng nói của tôi nhằm trúng đích.
Nhưng điều đó không chỉ ph ụ thu ộc vào tôi mà còn ph ụ thu ộc vào t ất c ả những ai có ý định đọc những ghi chép này của tôi. Ng{y trước, lúc còn bé, s ống ở quê, được nghe câu chuy ện huyền thoại về các chiến sĩ đ|nh gi|p l| c{ t{i ba có thể dùng tay tóm được viên đạn bay. Thế còn việc “tóm được” lời nói là một việc vừa đơn giản hơn lạ i vừa phức t ạp
hơn.
CHIẾ C ÁO LỌT LÒNG Tôi sinh ra và l ớn lên ở Altai, làng Curia. Th ế nhưng ngay từ khi biết nhận thức, tôi vẫn nhớ l{ gia đình tôi trướ c kia ở nơi kh|c, một vùng ấm |p tôi chưa hề biết. Theo lời kể của cha mẹ tôi thì vùng ấy ví như một thiên đường đ~ bị mất… Ở đó mọi người sống hạnh phúc. Ở đó mọc những c}y ăn quả tuyệt vời: t|o, mơ, “bargamơt”
v{”granclêt”
Những quả táo, tôi có th ể tưởng tượng như người ta viết trong các chuyện cố tích, chúng giống “những quả táo thần”. Thế còn hai loại quả huyền thoại kia là qu ả gì? Có phải chúng đem lại niềm vui sướng cho con ngườ i? Tôi hỏi bố mẹ sao lại chuyển đến một vùng tuyết giá, thì c ả hai người đều cười hiền t ừ, và trả lời gần như chung một ý: rằng hoa quả đối với con người không thể phải là chính y ếu, nó chỉ là thứ ăn chơi, c|i căn bản đố i v ới m ỗi người s ống trên mặt đất là bánh mì. Th ế mà ở đ}y b|nh mì mọc sẵn trên c}y cơ m{ – nào tôi có th ấy l ần nào loại cây ấy đ}u? Bí mật này của tuổi thơ tôi còn lưu giữ rất l}u, đến độ nhiều năm sau, mỗi khi nhắc đến một chi tiết n{o đó của câu chuyện xưa, trong lòng tôi lạ i bừng lên một tình cảm thơ mộng huyền diệu. Và trong các báo cáo long tr ọng thời trẻ, cũng như trong c|c bài phát biểu chính th ức mang nặng dấu ấn thời đó, tôi thường nói thế này: thật hạnh phúc nhận ra một sự thật l{… Thế rồi, tôi kể ra các th ắng lợi, th{nh tích đạ t được, mặc dù cái th ắng lợi đó có thật hay không không c ần biết, vậy làm sao trong tôi lúc ấy có thể n{o cũng thức dậy những hồi ức vê một thời h ạnh phúc xa xưa. V{ chỉ m~i đến khi ở tuổi g ần như đ~ trưởng thành tôi m ới hi ểu r ằng “granclét” l{ một loại mận quả cực to giống “renclôt”, còn “bargamơt” l{ giố ng lê ngọt quả to… V{ cuối cùng tôi mới biết, thế ra là cha m ẹ tôi t ừ làng Hạnh phúc vùng Cuban chuy ển đến Altai. Có l ẽ vì mọi người trong nh{ thườ ng hay chuyện nên t ừ bé tôi đ~ biế t tôi sinh ra trên đống cỏ khô, ch ứ không phải trong nh{. Hôm đó mẹ tôi vừa kịp đặt xô nước gánh t ừ giếng về, treo đòn g|nh lên một chiếc đinh xong, chỉ kịp đi đến đống cỏ thì tôi đ~ ra đời. Lúc sinh ra, tôi r ất gầy yếu, v{ như ngườ i nhà tôi nói, không có b ệnh nào mà tôi không m ắc. Có khi cùng lúc m ắc hai, ba b ệnh liền chữa mãi không kh ỏi, thôi thì đến hết ông “y s~i” l{ng lại đế n khắp lượt c|c b{ lang băm trong vùng. Tôi đ~ suýt chết. Khi ấy tôi lên s|u. Tôi đ~ ngừ ng thở. Bố mẹ thôi đặt chiếc lông lên mũi tôi, nó chẳng động đậy tí nào, bèn cho người đi gọi bác thợ mộc. Đến nhà, bác bẻ cành cây l{m thước đo người tôi, rồi bước ra s}n l{m hòm… Nhưng b|c chỉ vừa kịp bổ nhát
rìu đầu tiên, thì tôi b ắt đầu t ỉnh lại. Lại gọi bác thợ mộc vào nhà. Bác nh ổ nước bọt nói: “Thằng nhãi ranh, v ắt mũi chưa sạch, thế m{ đ~ biết lừa!” Sau này nhiều l ần tôi được nghe một người l{ng cũ gặp tôi là nói bóng gió g ợi l ại chuyện tôi đ~ từng giả vờ ốm. Nghe nói thế về mình, đôi khi tôi rấ t t ức, và chỉ sau này, muộn hơn, tôi mới hiểu và tha th ứ cho mọi người. Mẹ tôi, Alecxanđra Phơrôlôpa, có tất cả 19 người con, nhưng chỉ sống t|m người. Tôi nh ớ hồi ở Ijepsk lúc ấy mẹ tôi t ừ l}u đ~ th{nh cụ nội rồi, các con tôi bám l ấy bà mà hỏi: B{ ơi, b{ kể đi, bà có bao nhiều người con t ất cả… mẹ tôi bắt đầu đếm đốt ngón tay tính: “Gasa, Vichia, Nura, Vaxia, Nhicôlai, Ivan, Anđrêi, Tachiana, Ivan…”. C|c ch|u g|i đị nh chữa: “Ivan b{ đ~ tính rồi, b{”?, “Không, đ}y l{ Ivan kh|c, – Bà nói – Ivan kia ch ết rồi”, “B{ đếm tiếp đi”. B{ gập ngón tay út: “Mikhain…”. Tôi l{ ngườ i con thứ mười c ủa bà. Bà lại xòe h ết các ngón trên hai bàn tay tính l ại. “Thế còn Nhicôai b{ cũng tinh hai lần?” Các cháu gái l ại hỏi. – “C|i gì?”- Nhicôlai th ứ nhất cũng…” “Còn sống, các cháu ạ! – Bà thở dài – Còn sống”. Lúc này, bất gi|c tôi nghĩ về gia đình người Nga chúng ta: Nó đ~ hình th{nh như thế đấy. Làm gì có kế hoạch gia đình, mọi chuyện diễn ra, đều do “trời cho” cả ! Còn một khía cạnh nữa; ai cũng mong có con, hy vọ ng khi lớn lên chúng sẽ giúp đỡ. Mong có người làm! Chính vì th ế m{ chúng tôi đến vùng Altai xa xôi: “Đi tìm đất”. Ngày nay hoàn toàn khác: M ỗi c ặp v ợ ch ồng chỉ có một con, hoặc có khi người m ẹ
sống độc th}n…
Mọi thứ chỉ dồn cho mình nó, mọi sức l ực c ạn kiệt vì nó, nhưng nó đượ c bằng m ột trong số 15-18 đứa con kia không? Giờ ta lại trở về làng Curia c ủa chúng tôi. Có m ột chi tiết, có thể không kém phần quan trọng trong tiểu sử của tôi: “Từ khi còn bé tí, đến tuổi thiếu niên nhiều lần tôi được nghe mẹ tôi thì thầm đầy bí ẩn với hàng xóm, rằng “Thẳng Misa nhà tôi sau này sẽ sướng lắm đấy, nó đẻ ra trong chi ếc |o sơ mi hạ nh phúc vào gi ờ t ốt. Tôi sẽ giữ cẩn thận!- Nói rồi mẹ tôi chỉ vào chỗ chiếc đèn thờ v{ tượng thánh trên bàn th ờ – Ở đấy!” Và một lần, cơ hội hiếm có đ~ đến, chỉ có một mình ở nhà, tôi kéo chi ếc bàn lại gần bàn thờ, đặt chiếc ghế đẩu lên trên, leo lên tháo b ức tượng th|nh trên ra. Tôi nghĩ trong đấy sẽ có cái áo h ạnh phúc mà không hi ểu sao mọi người lại giấu tôi. Bẻ mấy c|i đinh con lên cho thẳ ng, tôi tháo miếng đậy sau bức tượng ra, nhưng ngo{i l| kim loại đồng và những bông hoa giấy, không có gì nữa cả. Sau này bố tôi lôi tôi xu ống “cho mấy cái thắt lưng” v{ đe: “Giờ m{y đ~ biết cái gì ở đấy chưa… Giờ đ~ hiểu chưa?”. Tuy nhiên phả i thú thật l{, đối với tôi trận đòn hôm ấ y vẫn chưa rõ lý do: l{m hỏng tượng thánh hay vì t ội tò mò.
Bây giờ, t ừ xa nhìn lại, khi mà nhi ều tình tiết trong đời tôi hình như không phả i ngẫu nhiên xảy ra, m ở mang ý nghĩa điềm b|o n{o đó thì đôi khi tôi bỗ ng nhớ lại: vậy b ức tượng thánh ấy là gì nhỉ?… Sau đó tôi d~ lao độ ng quên mình, c ẩn th t hận làm lại t ất c ả như cũ, nhưng rồi cũng chẳ ng có thời gian rỗi để mà ngắm nhìn chính hình tượng Chúa… V{ sau đó bức tượng biến đi đ}u mất, v{ tôi cũng không tìm thấ y “chiếc áo hạnh phúc” của mình.
V{i năm trước đ}y, khi nói chuyện về chi ếc áo bí ẩn này, một người quen t ốt b ụng của tôi nói th ế n{y: “Ông Mikhain Timôphêvich ạ , giờ tôi mới hiểu bí mật của các thành công trong sáng ch ế của ông. Chẳng hạn, trước kia theo t ục lệ của người Cherkes, thì b ố m ẹ th ế n{o cũng đem đố t ho ặc chôn xuống đất cái áo ấy, để cho đứa trẻ trở nên bình thường như c|c bạn đồ ng trang l ứa, không có nh ững khác biệt v{ ưu thế riêng biệt gì vượt trội. Còn ông, chính là m ột mẫu hình c ủa nền dân chủ nhân dân: không hề có bất c ứ m ột hình thức ng ụy t ạo nào. Mẹ ông đ~ không l{m như mọ i người, bà cụ đ~ thương ông, g iấu kín cái áo, b ất ch ấp t ục l ệ. Th ế nên, ông phải mang ơn mẹ mình, cụ Alếchxanđra Phơrôlôpna, m~i m~i sau n{y!” Cũng có thể như thế. Quả thật, tôi mang ơn mẹ tôi nhiều lắm. Tôi đ~ l{ một đứa bé ốm yếu, bệnh t ật, ật, nhưng lại thích chơi vớ i các bạn lớn hơn, bằng tuổi c|c anh tôi. Tôi thườ ng ra sức cố gắng để không thua kém ai, chơi bình đẳng với cả đội. Ước vọng n{y có lúc đ~ dẫn đế n những hậu quả đ|ng buồn. Khoảng sáu – bảy tuổi, tôi vẫn ngầm ganh t ị với các bạn mình có đôi giầy trượ t băng l{m lấy b ằng g ỗ, b ịt s ắt ho ặc “đóng móng” bằ ng một đoạn dây sắt lưới đế. Cu ối cùng thì tôi cũng thực hiện được ước mơ củ a mình: anh cả đ~ l{m cho tôi đôi giầy trượt băng như thế ! Bu ộc xong đôi giầy g ỗ vào ủng, tôi khập khiễng đi ra phía sông. Lần đầu tiên trong đờ i, tôi biết thế n{o l{ trượt băng, cứ một ch}n trượt một chân t hẳng xuống l ỗ đục thông xuống băng… Nếu không có đẩy tôi đi, v{ cứ th ế, tôi trượt th c|i mũ bông to của anh cả tôi xòe ra như c|i dù căng gió thì tôi đ~ chế t chìm. Tôi ôm mũ, người chìm xuống nước đến th ắng lưng kêu to, nhưng c|c bạ n tôi lại còn kêu to hơn, gọi người đế n cứu. Bây giờ tôi không còn nhớ m ọi người đ~ lôi tôi lên v{ mang về nh{ như thế n{o… Bố mẹ tôi lột hết quần |o ướt của tôi ra, đẩ y tôi lên mặt bếp lò kiểu Nga, trong đó sấ y lúa kiều mạch. Hơi ấm t ừ lúa nhanh chóng truy ền sang tôi, một lúc sau người tôi ướ t đẫm mồ hôi, nhưng bố mẹ vẫn cứ tiếp t ục gi ữ một một thời gian ở trên lò, vì sợ tôi mắc b ệnh lao phổi. M ọi việc đ~ xong xuôi: những h ạt lúa nóng ấm đ~ l{m được công ốt l{nh l{ xông hơi lầ n ấy cho tôi thật kỹ. Sau này, m ỗi khi bị lạnh ở ngoài mặt việc t ốt trận, lúc nằm vi ện h ệ th ống sưởi ấm kém, lúc đi c}u c| sau chiến tranh, ch ỉ c ần nghĩ đến lần xông ấy l{ đ~ thấy ấm lòng. Nhưng lạ i có cái giở là tôi không bi ết trượt băng. Tôi đ~ thử nhiều lần và hoàn toàn không hi ểu t ại sao, không th ể trượt nổi, giầy t ự
làm không nói làm gì, k ể cả giầy chính hiệu “N{ng Bạch Tuyết”, “Canađa”… cũng không trượt được. Nhân nhắc t ới ới nước, có lẽ nên kể luôn câu chuy ện tôi đ~ lập “kỷ lục” lặn như thế nào. Con sông nhỏ Lôcchépca ch ảy qua làng tôi không r ộng v{ không s}u, nhưng hay dở chứng bất thường và có những chỗ nguy hiểm, những vực nước s}u, đế n cả người lớn cũng phải s ợ. m ặt nước nhìn lặng lờ yên tĩnh, nhưng nó đ~ từng mang đi nhiề u mạng người. Thườ ng thì bọn chúng tôi tránh xa nh ững vực nước ấy. Nhưng chúng không chỉ đe dọa mà còn h ấp dẫn, thu hút chúng tôi n ữa!… V{ một lần chúng tôi t ắm ở một đoạn sông không xa v ực lắm, tôi đ~ không kìm được, để trôi xuôi vào vùng xo|y. Đ|ng lẽ ph ải c ố để ngoi lên, tôi lại thích thú h ụp xuống thêm s}u hơn, s}u hơn nữa. Xuống đến đ|y sông tôi ngồi bó gối, co rúm người, uống nước, khi mở mắt ra thì thấy phía trước có đ|m cỏ gì đấy m ọc, lá của chúng r ập r ờn, u ốn lượn lên trên. Th ật khó nói, tôi đ~ ở trong trang thái s ững sờ ấy bao l}u… Và bỗng nhiên, với óc tưởng tượng của trẻ con, tôi hình dung ra m ẹ tôi đang khóc bên rất đông họ hàng, xóm giềng đến đưa tang đứng thành vòng chặt cứng quanh tôi.
Ai cũng bảo rằng: t ại ma xui, qu ỷ khiến lôi kéo th ằng Misa xuống vực, chứ nó không thể t ự bơi đến đấy… Tất cả những điều đó tôi đ~ hình dung ra v{ cả m thấy như có thực! Rồi sau đó điều gì xảy ra tiếp theo tôi không còn nh ớ. Nghe kể l ại r ằng, vớt được tôi lên bờ, m ọi người đặt tôi lên một chiếc chăn mỏng, nâng lên khỏi mặt đất, lắc đi lắc lại đ|nh võng để xổ nước ra… Khi bố mẹ tôi chạy đến thì tôi đ~ ho{n to{n hồ i t ỉnh. Sự c ố n{y đ~ để l ại d ấu ấn trong đời tôi, khiến cho đến t ận bây giờ tôi vẫn không biết bơi. Bao nhiêu lần bơi tập, bao nhiêu năm vẫ n thế, không vượt qua được cái khuy ết t ật bực mình n{y… chỉ mới bơi được năm, mườ i mét đ~ hoảng sợ ngoái lại nhìn bờ như nhìn mộ t báu vật thiêng liêng r ồi… Đồng thời lúc n{o tôi cũng có cảm gi|c bên dưới là một khoảng s}u thăm thẳm. Thật khó tưởng tượng được rằng, một người đ~ trưở ng thành lại không thể vượt qua nỗi sợ h~i đ~ trải qua một lần thơi thơ ấu. Nhưng đó l{ sự thật. Còn một ký ức tuổi thơ nữa: b ệnh đậu mùa. Lúc tôi g ần năm tuổi thì bị đậu, khắp người đậu mọc dày, suốt ng{y đêm ngứa ngáy không yên. Không ch ịu nỏi, tôi c ứ muốn cấu nát những cái nốt nhỏ trên người. Bố mẹ tôi cứ đe nẹt luôn m~i: “Bỏ tay ra!… m{y m{ cấu n ốt đậu là rồi mai sẽ r ỗ như con Xônhia ấy!” Xônhia l{ cô bé h{ng xóm mặt rỗ ch c hằng r ỗ chịt cứ y như c|i b{n x|t khoai. Nhưng có lúc ngứ a quá không chịu n ổi, tôi đ{nh chấ p nh ận gi ống… Xônhia cũng được… bố m ẹ tôi thấy th ế li ền trói tay tôi lại. M ặc dù bố m ẹ tôi đ~ hết s ức c ố gắng v{ tôi đ~ cắn răng chị u kh ổ, ch ịu s ở, nhưng dấu vết của căn bệnh vẫn còn lại trên mặt tôi. Về những năm th|ng tuổi thơ, cho dù có khó khăn vấ t vả bao nhiêu chăng nữ a, mỗi khi nhớ l ại, suốt đời tôi vẫn th t hấy b ồi h ồi xao xuyến… Từ năm bảy tu ổi đến chín
tuổi, h{ng xóm đ~ mướ n tôi dắt ngụa l{m đồng. Sáng sớm đi l{m khi mặt trời mọc, đến t ối m ịt mới đi ngủ. Ở Altai giữa mua hè t ối m ịt nghĩa l{ 11 giờ t ối. ối. Đêm mùa hè chỉ như một thoáng qua, ngắn ngủi… Lúc ấy tôi không thể tưởng tượng được rằng đến bao giờ mới được ng ủ chán mắt. T ừ sáng sớm đến đêm, tôi ngồi trên lưng ngự a cày hoặc bừa, cứ nhìn mãi lên tr ời và lấy làm ngạc nhiên: sao m ặt trời lại đi chậm chạp thế? Chính bản thân chủ tôi làm việc đến “s|u b{n ch}n”, đương nhiên tôi cũng phả i làm theo th ế… Sáng sớm tinh mơ, khi mặ t trời vừa lên, bống t ối cứ ai đều trải dài trên m ặt đất, sau đó khi mặt trời bò lên dần, lên dần thì bóng người cũng ngắ n lại… Đồng hồ lúc ấy không có, gi ờ ngh ỉ trưa tính theo độ dài c ủa bóng nắng. Khi nào bóng t ối co ngắn l ại bằng đúng s|u b{n ch}n tôi, thì mới đế n giờ nghỉ. Càng gần đến trưa tôi lại càng nhiều hy vọng, cố tính mãi: một n{y, hai n{y!… Cuối cùng tôi reo lên sung sướ ng, báo tin cho ông ch ủ, sáu rồi! Giờ nghỉ chiều cũng quy định “s|u b{n ch}n”. Từ khi mặt trời vượt đình đầ u, bóng ngả về phía trước lại dài bằng s|u b{n ch}n thì… lạ y Trời! Lúc này cái nóng b ức chưa hề giảm, còn các con ru ồi, con mòng thì lại đeo b|m c{ng dữ dội hơn… Sau này, đôi khi tôi buồn bã nghỉ r ằng: có thể chính vì h ồi bé tôi ch ỉ mong sao cho bóng mình thật ngắn, nên sau này lớn lên tôi không có t ầm vóc cao! Th ực sự con người tôi đ~ ăn s}u v{o đất, trước khi bắt đầu lê đôi ch}n không, s|u lầ n sang phải, sáu lần sang t r|i… r|i… Có biết bao nhiêu ý nghĩ hăng say v{ ng}y thơ đi qua c|i đầ u nh ỏ con đặt trong cái thời “s|u b{n ch}n” cự c nhọc ấy của tôi. Đ~ có bao nhiêu b{i h|t tôi đ~ h|t từ khi mặt trời lên đến khi mặt trời lăn! Tôi h|t để kh ỏi buồn ngủ và khỏi ngã ngựa. Nhưng đôi khi b{i h|t cũng không giúp gì được: tôi đ~ ng~ hai lầ n xu ống b ừa. Thật may, đôi ngựa mừng vì có cớ để nghỉ đ~ dừng lại ngay, và bắt đầu đuổi ruồi, muỗi. Đôi lúc, thợ c{y đi sau ph|t hiện ra tôi ngủ g ật, liền cho một roi để tôi t ỉnh táo trở lại. Chẳng phải giấu giếm làm gì, nhiều lần tôi đ~ khóc… Thế nhưng, thật sung sướ ng biết bao, khi làm xong tr ở về nhà! Bạn bè cùng lứa nhìn tôi v ới vẻ ganh t ị trong lòng, chúng nó nghĩ tôi cao hơn hẳ n m ột c|i đầu, và già d ặn kinh nghiệm s ống. Tôi t ự hào về điều đó, thầm nghĩ: “Mình biế t phải khó nhọc th ế nào mới kiếm được mi ếng bánh mì. Chứ các cậu, còn non n ớt lắm…”. Có thể vào những ngày nóng bức, công việc nhà nông vất v ả, tôi đ~ h|t nhiều, hay nói đúng hơn đ~ g{o hế t cỡ bao nhiêu bài hát, nên t ừ bấy đến nay tôi luôn hát m ột mình một giọng. Vâng, có lẽ thiên nhiên không phú cho tôi “đôi tai nghe nhạc”, nên tôi hoàn toàn không có nh ạc cảm.
Lần ấy, khi tôi đ~ l{ chủ gia đình, nghe giọ ng hát tuyệt trần của ca sĩ nhỏ tuổi người Ý Rôbetinô Lôretti, tôi nói v ới các con g|i: “C|c con có nghe thấ y không, trẻ con người ta h|t hay đến thế!” C|c con tôi trả lời: “Chúng con có gien }m nhạc đ}u m{ h|t được như thế!” Mộ t lời ám chỉ nhẹ nh{ng v{ ho{n to{n có căn cứ . Mặc dù vậy khi có m ột mình, tôi vẫn khe khẽ hát những bài dân ca Nga c ổ. tôi rất thích c|c điệu d}n ca, đặc biệt do c|c d{n đồng ca nổi tiếng trình diễn hay do các ngh ệ sĩ có chất giọng d}n gian mênh mông h|t. Được nghe băng ghi c|c b{i h|t của ca sĩ tuyệ t vời Liđia Ruxlanôva đối với tôi thực sự là một ngày hội. Nhớ lại tuổi thơ l{ nhớ lại những buổi đi chơi đêm. Thông thườ ng những gã trai lớn hơn hẹn ngày giờ đi. Chúng tôi tập trung th{nh nhóm năm – s|u người một. Thỉnh thoảng tôi cũng được đi, trong hội “ngườ i l ớn” ấy ch ỉ có tôi là tr ẻ con. Tôi r ất t ự hào về điều đó, nó chứng t ỏ tôi rất được tin cậy. Các bạn bè cùng l ứa rất ghen t ị với tôi – bởi ai ch ẳng muốn ban đêm đượ c ở ngoài thảo nguyên, nghe nh ững câu chuyện kể say mê đến hút hồn, để rồi có khi thao th ức cho đến sáng không ngủ.
Thường là thế n{y: sau khi đến chỗ hẹn, buộc chân ngựa, thả ra bãi c ỏ non tươi mênh mông dưới bầu trời sao sáng, rộng. Chúng tôi ng ồi quanh đống lửa, bàn luận các sự kiện trong tuần, hát hò, k ể những câu chuyện “rùng rợn”… Đế n lúc phải có một trong các cu ộc vui t ối ở làng, các gã l ớn hơn cử hai người một ngựa phóng về l{ng. Trước khi đi họ dặn tôi: h~y nhanh nhanh m{ đi ngủ nhé! Nói dễ th ật!… Tiếng vó ngựa v ừa im ắng thì một nỗi s ợ hãi khủng khiếp bao trùm lấy bạn… Lúc thì nghe như có tiếng sói hú; lúc thì như có bóng đen n{o đó lừ l ừ ti ến về phía b ạn; lúc thì bỗng nhiên cảm thấy dưới nệm cỏ có rắn bò; lúc thì tưởng tượ ng ra tiếng gào thét c ủa ma quỷ! Và thế là tôi cứ co rúm người lại sợ h~i, căng thẳng nghe ngóng, lo lắng nhìn quanh và ch ỉ biết t ự an ủi một điều: các bạn ấy sắp về rồi… Và, cuối cùng cho đến t ận quá nửa đêm mới nghe tiếng họ về. Lúc ấy mới thấy nhẹ nhõm trong lòng, và th ật sự hạnh phúc. Ngay đến t ận giờ tôi vẫn coi mình lúc ấy là một anh hùng: một mình d|m đối mặt với bao n ỗi sợ h~i trong đêm tối giữa thảo nguyên! Nhưng tôi sẽ không bao giờ kể lại cho ai s ự thật về những ảo ảnh ma quái trong đêm ấy. Các bạn lớn về rồi, còn chuyện trò thì thào mãi, g ần sáng mới lăn ra ngủ. Những cuộc chơi đi của họ đương nhiên l{ đi giấu, nhưng cha mẹ vẫn đo|n biết, và làm ra vẻ không phát hi ện ra… Khi còn niên thi ếu, đứa tr ẻ n{o cũng bắt chước ngườ i l ớn, không cần bi ết điêu đo t ốt hay xấu. Vào nh ững buổi t ối ối mùa đông d{i dằng dặc, khi ngoài tr ời gió bão, nh ững người b ố – ch c hủ gia đình thường đến chơi vớ i b ố tôi. Họ t ỉ tê chuyện trò về quá khứ, họ mơ ước về thương lai, đôi khi kéo d{i đế n t ận bình minh. B ọn trẻ chúng tôi thì nằm trên ổ nín thở nghe những lời luận bàn, những câu chuy ện xảy ra có th ật với họ. Nếu như chúng tôi không nghe thấ y hết, hoặc không hiểu hết những gì họ thầm thì
với nhau thì cũng chả sao. Chúng tôi thích thú ng ắm nhìn h ọ – nh ững người đ{n ông Xibêri lực lưỡng, và khát khao nắm bắt, nuốt hết một c|i gì đó rất riêng trong các thói quen, trong c|c động t|c, điệ u bộ và cung cách giao ti ếp với nhau cả họ. Ông láng giếng thường đến nh{ tôi chơi l{ một người đ{n ông v{i rộ ng, cao lớn đi lại khoan thai. Mi ệng ông luôn t ỏa khói thu ốc, trông đến nghẹt th ở. Quan sát ông, tôi giấu kín sự thèm kh|t trong lòng. Đặc biệt tôi rất thích kiểu hút thu ốc của ông, rất đặc biệt, hoàn toàn không gi ống người khác. Rút gói thu ốc ra, ông k ẹp vào giữa hai ngón tay trái, hai ngón tay khác gi ữ một mẩu giấy báo. Tay ph ải lây một dúm thuốc trong túi ra và qu ấn lại th{nh điếu rồi dùng môi kẹp lấy điếu thuốc. Ông t ừ t ừ rút que diêm trong túi ra, gác chân trái lên g ối chân phải, rồi bằng một động tác dứt khoát ông quẹt diêm v{o đế ủng. Thời điểm quyết định n{y l{m cho tôi kho|i tr| đến t ột cùng. Với trí tượng tượng của trẻ con, tôi hình dung ra b ức tranh mới: không phải ông, mà chính tôi biết châm thuốc kiểu ấy, làm mọi người xung quanh ph ải kính phục! Ôi, tôi mong chóng th{nh ngườ i lớn l{m sao! Tôi mong đượ c hút thuốc làm sao! Tôi sẽ hút giống hệt ông láng giềng. Và rồi tôi không thể chờ lâu thế được… Một hôm, đứng giữa bè bạn cùng lứa, tôi đ~ thử “vẽ” lại b ức tranh ấy. Tôi lấy ít lá khô quấn như điếu thuốc “thật”, rồi cũng… trịnh trọng rút diêm t ừ túi ra như ông láng giềng, choẹt… không ch|y v{o đế ủng. Đúng v{o lúc quan trọ ng nhất, hấp dẫn nhất, không th{nh công đ|ng xấu h ổ ấy, thì anh c ả tôi xuất hiện! Anh ấy c ầm tay tôi, lôi về mách bố. tôi hiểu toàn bộ tình trạng thảm hại của mình nhưng vẫn cứ băn khoăn một ý nghĩ: sao anh tôi biế t chỗ “bí mật” ấy? Tại sao anh ấy đến nhìn trộm mà không ai biết? Lời “giảng giải” của bố tôi đ~ đạt được ý nghĩa gi|o dục; cho đế n khi trưởng thành, tôi không h ề hút thuốc dù chỉ một lần. bố tôi không áp dụng biện pháp đặc biệt n{o như những người kh|c đ~ l{m. Có trườ ng hợp như thế này: khi phát hiện ra đứa trẻ hút thuốc t ự cuốn, bố nó hoặc anh nó bắt nó hút cho đỏ điếu thuốc, rồi cầm lấy v{ gí đầu đang ch|y v{o lỗ tai hoặc lỗ mũi đứa trẻ… Phải nói là bi ện pháp quá khắc nghiệt, nhưng cũng có t|c dụng giáo dục! Tất nhiên cũng không nên nghĩ rằng vì trình độ văn hóa thấp mà thời đó cha ông chúng ta đ~ dùng nhữ ng biện pháp ấy. Tôi nhớ rõ những buổi t ối dài lê thê vào nh ững ngày mùa thu xấu trời, hoặc vào những ngày bão tuyết mùa đông. Gió đập vào kính cửa sổ mang theo những hạt mưa li ti, nhưng bông tuyết ướt… Rồi sau đó bắt đầ u tiếng gió hú gào rú tri ền miên. Con bão tuyết t ừ thảo nguyên t ự do tr{n v{o, đập lên tường như muốn giật tung cửa ra để xông v{o nh{… Tấm v|n khô trên g|c thượ ng kêu có két c ứ như có người đi trên đó… Ừ, cứ việc đi. Ta không sợ . Bố tôi miệng t ủm t ỉm cười, n ửa n ằm n ửa ng ồi trên giường đ~ trải khăn, chúng tôi túm t ụm xung quanh ông. Ng ọn đèn dầu h ỏa t ỏa s|ng. Nhưng ngọn lửa t ừ b ếp lò hắt
ra còn s|ng hơn. Những vệt sáng phản chiếu t ừ các khe cánh c ửa lò bằng gang in lên trên tường… Mẹ tôi ngồi bên chiếc gi| đỡ bằng gỗ trên có cuộn len lông cừu to tướng, lúc thì phân loại len trong các ngón tay, lúc thì ch ải len cho trơn. C|c chị tôi ngồi cạnh, người thì xe sợi người thì quay guồng sợi. Chị cả Gasa ngồi đan len, còn anh Vích-to ngồi dưới đèn, tay cầm s|ch đọc “diễ n cảm” – chỉ có đọc kéo d{i như ng}m thơ thì bố tôi mới ưa – cho chúng tôi nghe v ề “mảnh ruộng chưa gặt” hoặc đọc truyện về bảy người đan ông “ngồi với nhau và tranh lu ận; ở nước Nga ai l{ người sống vui vẻ v{ sung sướng?” Có lẽ đối với Vích-to, vi ệc đọc thơ thuộc về trách nhiệm hơn l{ ý thích củ a bản th}n anh: đôi lúc hình như anh nghĩ trầ m ngâm về việc gi đó, đọc ngắc ngứ. Trong nh{ im phăng phắc… V{ Gasa bỗ ng hòa nhịp, đọc thuộc lòng tiếp b{i thơ, còn cha tôi khẽ nâng bàn tay ra hiệu cho Vích-to r ằng: bây giờ thì h~y yên, để Gasa đọc! Chị Gasa, một người con gái cần cù, hay lam hay làm và thông minh n ữa!… Giờ đ}y việc đi lại thăm hỏi nhau ch ẳng đơn giản chút nào: c ả sức khỏe không cho phép, và tiền vé t ầu xe – muốn hay không muốn buộc ta phải suy nghĩ… Lần cuối chị em chúng tôi gặp nhau đ~ c|ch đ}y gần năm năm. Lúc ấy chị tôi đ~ t|m mươi t|m tuổ i. Bà ca thán với chúng tôi l{ ho{n to{n “hổng còn ch}n”, đi lại khó khăn… thế nhưng khi nhớ lại ba phần tư thế k ỷ trước khi đại gia đình chúng tòi còn ở chung một chỗ, b{ đ~ từng đọc thơ Nêcraxốp…. Thì b{ dự a vào ghế đứng lên giọng hân hoan lại đọc, đọc l}u… Thấy thế c|c con g|i tôi v{ đứa cháu trai b ắt đầu sửa lại tư thế ngồi cho thoải m|i hơn, nói: xem ra b{ Gasa vẫn còn “kể chuyện” l}u… Còn khi ấy, trong nh ững buổi t ối bão tuyết nếu Gasa dừng đọc, thì bố tôi lại khe khẽ h|t… Chờ m ột chút mẹ tôi cũng hòa giọng theo, và m ời c ả nhà cùng hát, tr ừ tôi. Ai cũng bảo: “Misa h|t ch|n ngo{i đồ ng rồi, để khi nào nó hát m ột mình”. Thế là m ọi người cùng hát mới vui làm sao!
Thôi thì “Baican thiêng liêng, Baican lẫ y lừng”, “B~o gầm, sấm nổ”, “kẻ lãng du chạy t ừ Xakhalin”… Rồi b{i “Ch{ng trai Kozăc phi ngựa qua thung lũng, qua miề n Capcadơ”, không hiểu sao, l{ b{i l{m tôi rung độ ng nhất. Mắt bố tôi nho|ng nước khi ông bắt đầu h|t b{i “Miền Capcadơ” v{ cả tôi nữa chẳng hiểu sao cũng thấy xót trong lòng – y như người lớn. Khi bắt đầu đi học tôi đ~ biết đọ c, biết viết. Điều này có lẽ do lợi thế của gia đình đông con: hoặc anh chị lớn hơn dạy, hoặc t ự học lỏm, miễn là không t ụt lại sau “người lỡn”
Cô gi|o đầu tiên của tôi l{ Dinaiđa Ivanôpna , một ph ụ n ữ đẹp, trung tuổi, có giọng nói nhẹ nhàng, âu yếm. Chúng tôi đều coi cô như người mẹ thứ hai của mình, và ai
cũng mong ước được cô khen. Cô th ật kiên nhẫn và rộng lượng dạy cỗ chúng tôi, những đứa trẻ nông thôn r ất khác nhau v ề thể chất cũng như về khả năng trí tuệ. Dinaiđa Ivanôpna đến thăm từng nhà học sinh, em xét hoàn c ảnh gia đình, việc học ở nhà, sở thích t ừng h ọc sinh, quan hệ b ạn bè của h ọc sinh. Nói chuy ện v ới ph ụ huynh, cô không áp d ặt mà chỉ thận tr ọng đưa ra những lời khuyên về phương pháp giáo dục. Cô thật thương yêu học sinh và mong mu ốn ai cũng thông minh v{ tố t bụng. Thật khó nói l{ ai yêu cô Dinaiđa hơn: chúng tôi – h ọc trò của cô hay là b ố m ẹ chúng tôi. Uy tín c ủa cô ở làng tôi là tuyệt đối. Nhiều trường hợp bố mẹ chỉ cần nói đứa con phạm lỗi r ằng: “Rồi b ố s ẽ nói với cô gi|o!”, chỉ th ế l{ đủ để đứa tr ẻ nh ận ra lỗi của mình. Cô gi|o đ~ th{nh công cho chúng tôi c|c cuộc đi chơi thú vị , k ết h ợp v ới nhiều trò chơi hấp dẫn để giáo dục mối quan hệ t ốt đẹp và tôi trọng lấn nhau của học sinh. Trong các cuộc đi chơi, c|c bạn g|i đượ c giao nhiệm vụ nh ẹ hơn so với các bạn trai, còn việc thực hiện nhiệm vụ được giao, thì cô đòi hỏi m ọi người ph ải chấp hành một cách cẩn thận đặc biệt. V{o mùa đông, giữa các tiết học cô thường hướng dẫn chúng tôi múa vòng tròn. Chúng tôi nắm tay nhau t ạo thành vòng tròn nhỏ hơn ở trong. Vòng l ớn chuyên động theo chiều kim đồng hồ, vòng nhỏ chuyển động ngược lại. vòng lớn vừa đi vừa hát “Ta gieo hạt, ta gieo h ạt…”, còn vòng nhỏ thì h|t “Còn ta giẫm nát, ta giẫm nát…”. Trong mọi trò chơi trẻ con trong các gi ờ ngh ỉ, bao giờ cô Dinaiđa cũng cùng chơi với chúng tôi. Lòng yêu mến đối với lao động của người nông dân, tính t ự lập cao, giúp đỡ người lớn là những nội dung gắn liền với công tác giáo d ục trong nh{ trường chúng tôi th ời ấy.
Tôi cũng có mối tình đầu “trẻ con” với cô bé Dina xin đẹ p. Dina là m ột nữ sinh được giáo dục t ốt, thông minh, chu đ|o, người có vở sạch chữ đẹp của lớp. Chẳng giấu gì, lúc đó tôi rấ t muốn được giống Dina! Trường chúng tôi hồi đó ph|t động phong tr{o “Mỗi học sinh nuôi một con vạt theo phương ph|p khoa học”. Khi biết Dina nuôi m ột con bê, tôi xin b ố m ẹ cho nuôi con bê sắp đẻ nhà tôi. Tôi g ặp may, chẳng bao lâu nhà tôi có bê con. T ội thật sung sướng báo với cô gi|o, để cô ghi kh ẩu ph ần ăn cho bê trong hai tuần t ới. B ố mẹ cho phép tôi đặt tên cho con bê. Tôi g ọi nó l{ “Người đẹp”. Quả thật nó xứng đ|ng với tên gọi n{y: mình nó đen tuyề n, giữa tr|n điểm nốt đốm trắng xinh xinh và c ặp mắt trông thật khôn ngoan và trìu m ến. Tôi đ~ dăng ký thi đua: “ Ai có con vật t ốt nhất”.
Cô Dinaiđa thường xuyên kiểm tra xem chúng tôi có vi ph ạm định mức cho ăn v{ “hướng dẫn chăn nuôi gia súc sơ sinh theo khoa học” hay không. V{ mộ t lần cô đến nhà tôi kiểm tra, cô nói: “Tôi không đế n một mình, có người giúp việc đi cùng”. Tôi thật ngỡ ng{ng v{ vui sướng khi nhìn thấy cô bạn gái của mình cạnh cô giáo. Dina đứng đấy, m ặt đỏ tưng bừng vì giá lạnh mùa đông, hay vì bố i r ối và cố là ra vẻ quan trọng? Cô ấy chỉ có một lần, làm ra vẻ như vô tình nhìn sang phía tôi. Lúc ấ y trong lòng tôi rạo rực niềm xao xuyến, khiến không thể t ập trung tư tưởng được để báo cáo thành tích c ủa mình. Mẹ tôi đ~ hiểu cả, giúp tôi giới thiệu con bê của tôi với kh|ch. Cô Dinaiđa hỏi mẹ tôi trả lời. Tôi và Dina c ả hai đều bối rối, chỉ biết đứng lặng im. Cô bé với vẻ thích thú đặc biệt cứ ngắm nghía m~i “Người đẹp” m{ không mộ t lần ngó sang phía tôi.
Trước khi về, cô Dinaiđa có lời khen tôi, còn Dina thì nói lí nhí: “Bạn nuôi… con bê t ốt th ật”. Tôi đỏ mặt… Tôi nghĩ, thế l{ tôi v{ Dina đ~ tỏ tình. Và mẹ tôi cũng hiểu như thế. Ôm Dina, mắt nhìn sang tôi, mẹ tôi nói đầy ý nghĩa “Đ}y l{ công củ a nó cả, của Misa nh{ chúng tôi đấy!” Chia tay xong, kh|ch đi khỏ i, tôi lặng lẽ, không để cho ai thấy, vào chuồng dứng bên cửa sổ nhìn mãi theo h ọ… Tình bạn thời niên thiếu của chúng tôi kéo d{i không l}u… Một lần vào cuối mùa hè, khi tôi đi l{m đồ ng về, mẹ tôi, như vô tình, nói rằ ng Dina cùng với gia đình đ~ chuyển sang làng khác c ả rồi… Tôi không muốn tin v{o điề u này! Sau này tôi m ới biết, gia đình Dina bị buộc phải chuyển chỗ ở, tôi sẽ kể rõ hơn trong chương “Chiếc hộp đen”. Còn ở chương n{y tôi sẽ viết về việc gia đình chúng tôi sắp phải chuyển đi Xibêri xa xôi.
Năm th|ng trôi qua. Từ một câu thiếu niên mơ mộng tôi đ~ trở thành một chàng trai – vẫn mộng mơ… Tốt nghiệp Trung học, tôi suy nghĩ về số phận tương lai: l{m gì đ}y? Không hiểu sao mọi người đều cho rằng, số phận tôi đ~ được định đoạ t t ừ trước: dứt khoát tôi sẽ trở thành một nh{ thơ. Từ năm lớp ba tôi đ~ l{m thơ. Thậ t khó nói rằng trong suốt th ời gian đi học tôi đ~ viết được bao nhiêu: thơ ca, tranh biế m họa, và thậm chí cả kịch mà có vở đ~ được diễn ở trường. Quyển sổ tay và cái bút chì là nh ững ngươi bạn đồng h{nh thườ ng xuyên suốt ng{y đêm của tôi. Đôi khi, bất ngơ tôi thứ c giấc giữa đêm khuya, rút sổ tay và bút t ừ gối ra viết mò trong đêm tối nh ững dòng thơ m{ s|ng hôm sau phải c ố gắng lắm mới đọc được. Trong số các bạn bè, tôi đượ c công nhận l{ nh{ thơ nổi tiếng nhất l{ng. Nhưng, như sau n{y cuộc sống đ~ chỉ rõ, tôi đ~ phụ hy vọng của bạn bè đồng hương. Thật hết sức ngạc nhiên đối với mọi người, tôi trở th{nh “nh{ kỹ thuật”. Tuy nhiên lòng say mê sáng tác sau này v ẫn theo tôi suốt cả cuộc đời. Thời gian trong qu}n ngũ, tôi đ~ s|ng t|c đượ c một số b{i thơ gửi cho báo quân đội. Những b{i thơ ấy đ~ được in. Sau đấy v{o năm 1940, tôi được cử đi Kiép dự cuôc gặp mặt c|c nh{ văn trẻ trong qu}n đội. Tôi còn nhớ trên chủ t ịch đo{n có c|c nh{ văn, nh{ thơ nổ i tiếng thời đó tham dự. Hội nghị tiến hành phân tích các tác ph ẩm của c|c nh{ văn trẻ. Có nhiều ý kiến nghiêm túc, nhưng cũng có cả những ý kiến khôi h{i. C|c nh{ văn – chiến sĩ trẻ nhiều lần nh ất loạt cười vui vẻ khi t ừ trên sân khấu nêu ra nững sáng tác còn non n ớt c ủa chính họ. Nhưng cũng có những ngườ i, mặc dù vốn t ừ vựng không lớn, nhờ có đôi c|nh tưởng tượng phong phú m{ đ~ bay đi qu| xa cứ tưởng mình đ~ s|ng t|c được “tuyệt t|c” thật sự. tôi còn nhớ phòng họp n ổ tung một tr ận cười, khi được nghe đọc một tác phẩm của một ch{ng trai người Tula so s|nh ngườ i yêu vừa đẹp người lại đẹp nết của mình với chiếc ấm xamôva Tula yêu quý c ủa anh.
Nhưng mọi điều đó không l{m mế ch lòng các tác gi ả tr ẻ, vì mọi s ự đ|nh gi|, ph}n tích đều có tính giáo d ục, bổ ích v{ ch}n th{nh. Cũng có những tác phẩm viết hay gần như nh{ văn chuyên nghiệ p Tôi phải thú nhận rằng, lòng đam mê sáng tác của tôi theo năm th|ng có giả m dần, nhưng không hề mất hẳn. Khi đ~ trở th{nh công trình sư nổi tiếng, đôi khi tôi “cho ra đời” những b{i thơ h{i hước, đa phầ n vào những dịp lễ hội long trọng hay những ngày kỷ niệm của bạn bè.
Năm 1972, vợ chồng tôi bay đến Tula để nhận học vị tiến sĩ khoa học kỹ thuật phong cho tôi do có “một loạt c|c công trình”. Trong suốt th ời gian bay, tôi và v ợ tôi đ~ trao đổi riêng những c}u thơ h{i hướ c. Vợ tôi thỉnh thoảng cũng l{m thơ v{ trong giới bạn bè được phong là m ột “nh{ thơ gia đình”. Chiếc máy bay mà chúng tôi bay nh ỏ xíu, rung m ạnh, nhưng điề u mà chúng tôi quan tâm lại là: liệu c|c đồng chí Tula đ~ c}n nhắ c kỹ chưa, liệu chúng tôi có “bả o vệ” được không, hay là chúng tôi ph ải về tay trắng. Thế là tôi viết lên t ờ giấy:
Ầm ầm tiếng rú phi cơ Vang lên khắp chốn, nghĩ l{ chuông thi Tiếp sao “con rệp” Tu la
“Ôkê”! “Đóng móng” hay ta ta ra rìa? Đối với người Tula thì đề tài về người nghệ nhân thuận tay trái trong truy ện của Leskov đóng móng ngựa bằng những chiếc đinh “bọ chét” tuyệt vời của anh là một đề tài rất đ|ng tự h{o. Người Ijepsk chế t ạo vũ khí chúng tôi cũng không chị u kém. Hàng thế kỷ chúng ta đ~ cùng nhau ganh đua trong nghề thủ công và cả những câu châm ngôn cửa miệng. Trong thời gian chuẩn bị sản xuất hàng loạt tiểu liên AK-47, đại diện qu}n đội Vôinarôxki làm vi ệc cùng chúng tôi ở Ijepsk, sau ông chuyển về Tula. Nhân ngay sinh l ần thứ 50 tôi có viết t ặng ông b{i thơ: Ng{y trước ông cùng tôi Thử súng ngo{i khe đồi Tula nay bạn mới
Tim “rệp” cũ cho đờ i Ông tìm rồi sẽ thấy Trên móng ngựa sáng ngời Những chiếc đinh không gỉ,
Mang đến t ự quê tôi, B{n tay người thợ giỏi
Giữ chữ tín t ừng giờ Cho mỗi chiếc đinh sắt Ký hiệu chữ I-zờ (Izepxk) Cuộc “bảo v ệ” đ~ th{nh công. C|c nh{ b|c họ c Tula nhất trí và thân ái phong t ặng học vị tiến sĩ kỹ thuật cho tôi. Tôi th ật sung sướng khi được dự cuộc picnic t ổ chức ngay sau khi b ảo vệ. Thật là một cuộc chiêu đ~i cả thế giới! Nếu không phải cả thế giới, thì cũng cho cả Tula, đúng l{ như vậ y!
Nhưng sao tôi lại kể chuyện về chuyến đi Tula và về vợ tôi ngay sau câu chuy ện buồn về mối tình đầu không thành ấy?… Thường thì những tình cảm ban đầu trẻ con rồi sẽ chuyển sang mối tình “thật sự” khi trưởng thành và chuyển sang người vợ – người bạn… Hóa ra ph}n tình cả m c ủa người vợ – người b ạn đ~ vô tình gợi đế n m ối tình trước, thời trẻ trung của mình? Tôi không bi ết điều gì đ~ xảy ra với Dina, khi cô cùng v ới gia đình buộ c phải rời quê hương bản qu|n để đến một vùng xa lạ ở phương Bắc xa xôi… Cachia từ l}u cũng đi ở một nơi kh|c, còn xa hơn nữ a. Sự thống nhất mọi m ặt, s ự cô đơn được dung hòa đ~ lên tiếng trong tôi? Hay đ}y là một ý tưởng đối lập với con người tôi? Kể cả những b{i thơ không th{nh củ a tôi nữa… Sự thật thì có thể tôi đ~ th{nh nh{ thơ nếu như không có chiến tranh… Những năm tuổi thơ, tôi rất mê say k ỹ thuật. Kiếm được bộ phận máy móc hỏng n{o đó, l{ tôi d{nh thời gian để tìm hiểu nghiên cứu… Đầu tiên tôi mang về nhà, giấu kín chắc chắn trên gác, rồi lựa thời cơ mang xuố ng, lấy dụng cụ của bố trong kho mang máy ra khỏi nhà. Ở đó tôi vặn, tôi xoay, tháo: tôi r ất háo hức muốn biết, chi tiết n{y đ~ l{m việc như thế nào và t ại sao giờ nó lại không làm vi ệc? Thường thì tôi không chữa được máy hỏng. Trường hợp chữa được, thì tôi hết sức hài lòng và t ự h{o vì mình đ~ trở th{nh người chiến thắng! Tất nhiên người nh{ tôi cũng biế t những mày mò bí mật của tôi. Nhưng tôi chỉ t ự nói ra khi nào có k ết quả. Như thế sẽ đỡ xấu hổ vì thời gian bỏ ra vô ích, trong khi việc nà, việc đồng cả nhà làm không xu ể! Thời gian đó tôi cả m thấy ngoài máy móc ra tôi chẳng thích việc gì khác. Vài tháng sau khi v ề Curia, tôi v{ Gavơrin cùng ở trạm máy kéo, tôi b ắt tay vào nghiên cứu kh ẩu “braoning” m{ Gavơrin mang theo từ quê! Tôi tr ịnh trọng, cẩn thận mỏ gói giẻ bọc “c|i gì đó” xa lạ với tôi: thật đ|ng sợ và thật thú vị! Tay tôi run run b ắt
đ}u th|o c|i đồ vật k ỹ thuật – huyền diệu ấy. Các chi ti ết đều bị g ỉ, nhưng tôi th|o ra kh| nhanh. Trước mắt tôi mở ra c ả một thế giới máy móc mới – thế giới vũ khí! Hình như tất c ả các chi tiếu c ủa kh ẩu Braoning đều hoàn hảo, đều được t ạo th ật đơn giản và thật đẹp. Tôi dùng g ạch đập nhỏ mài những chỗ bị han gỉ sạch sẽ, rồi lắp lại, rồi lại tháo ra và l ắp lại. C ầm kh ẩu súng trong tay, tôi khát kh ảo mu ốn b ắn th ử, kiểm tra sự hoạt động của nó. Nhưng lấy đ}u ra đạ n, không biết Gavơrin có không?… Hoặ c có nhưng anh ấy không d|m đưa vì biết khả năng tôi có thể chữa được súng. Tôi đ{nh giấu khẩu súng lẫn v{o đống đồ đạc cũ. Nhưng có ai đó đ~ đ|nh hơi đượ c nó. Ít hôm sau, một người công an đến nh{ tôi. S|ng hôm sau, tôi đ~ phả i ngồi trong phòng giam có song s ắt. Trước sau tôi chỉ khẳng định một điều: “Tôi không hề có khẩu súng lục nào cả!” Bây giờ nghĩ lại, mới thấy thời ấy phức t ạp thật… M{ cũng phải thú nhận rằng việc đó không chỉ do lỗi của tôi mà lỗi của cả gia đình tôi nữa… C|c chị tôi đến thăm v{ mang đồ ăn cho tôi đ~ khéo léo để nói mong nộp cái của bất hạnh ấy đi. Nhưng tôi đứng vững, không thay đổi ý kiến. Bị giam mấy ng{y m{ tôi tương như vô tận. thỉnh thoảng tôi lại có ý định chạy trốn. Tôi bắt đầu vạch kế hoạch h{nh động, nhưng chẳ ng bao lâu sau th ấy rằng không thể thực hiện nổi được. Tôi nhớ lại những b{i thơ của mình, đọ c thành tiếng v{ cay đắng nghĩ rằng: “Sao cuộc sống lại đẩy mình vào lính v ực thi ca dịu d{ng sang tư duy kỹ thu ật khắc nghiệt thế?”. Sau này nhớ lại, hồi ấy tôi đã mất mấy năm m{y mò gian khổ với ý định chế t ạo một động cơ vĩnh cử u. Thế rồi, tôi không sao hi ểu nổi, t ại sao l ại không thể đưa nó vào trạng thái làm việc được? Tôi đưa cho mọi ngườ i xem các bộ phận của máy ai cũng nhất trí bảo: nó sẽ làm việc. Chính trên cơ sở n{y tôi đ~ kết thân với m ột gi ảng viên vật lý tuổi đ~ kha kh|, m{ sự có mặt của ông ở vùng chúng tôi là m ột bí ẩn. Ông tách riêng nh ững học sinh có năng lực kiến thức riêng và g ọi tên theo l ối cổ, tôi được ông gọi là Kalasnhcốp Mikhain Timôphêep. Đương nhiên ông l{ cố v ấn k ỹ thu ật chính của tôi v{ đồng thời l{ người ph ản bi ện nghiêm túc nhất. M ột hôm, sau khi l ục xem mọi chi tiết tháo rời của chiếc động cơ tương lai m{ tôi mang đến trường, v{ xem xong c|c “bả n vẽ” của tôi, thầy trầm ng}m nói: “Mikha in Timôphêep, em có hi ểu những bộ óc nổi tiếng nhất thế giới t ừ kh| l}u đ~ có những ý kiến rằng không thể chế t ạo được động cơ vĩnh cửu… Thế nhưng em lại cố chứng minh điều ngược lại!”
Một số người biết tôi t ừ l}u, thường khẳng định rằng: Tôi có m ột đặc điểm bẩm sinh bộc l ộ r ất s ớm t ừ lúc còn trẻ, đó l{ không chỉ bi ết ch ứng minh lẽ ph ải c ủa mình mà còn biết “truyền b|” v{ thực hi ện nó bằng chính t ấm gương s|ng của mình. Có lẽ l{ như thế thật. Nhưng liệu tôi có ti ến được xa không, khi mà ch ỗ tôi ở cách ga xe l ửa gần nhất cũng mấy chục cây số, khi mà mỗi “mảnh đất” đều ph ải đi xin, đi đổ i, hoặc phải mua… Lại nhớ, hồi bé tôi m ỏi cổ đi tìm “quả b|nh mì” trên c}y, trong khắ p rừng lân cận, v{ nay tôi như còn chó săn, lùng sụ c tìm kiếm sắt thép phế thải không còn thiếu ngóc ngách nào! Ngày nay thì ta th ấy kh ắp nơi h{ng núi sắ t thép, phế liệu, thậm chí cả ở những nơi không bao giờ có b{n ch}n người đặ t t ới, bạn cũng có thể giẫm phải chiếc cầu sau cắm trong đất c ủa m ột chiếc xe xích ch ả hi ểu sao lại n ằm ở đ}y. Trong những lần đi xa, tôi thích ng ắm nhìn qua c ửa sổ toa t ầu, và mỗi lần gần đến một ga n{o đó, dù l{ ga xép, tôi c ứ nhấp nhổm ngó xem kho sắt thép phế liệu của họ ở chỗ n{o?… Có lúc nhìn thấy chiếc cần cầu to đang n}ng cả một đống sắt, bạn có tin không, tôi nghe th ấy tiếng thở dài c ủa chính mình: giá mà th ả đống c ủa c ải này vào sân nhà mình ở Curia nhỉ. Không, tôi s ẽ không để ngoài sân! Tốt nhất để gần ngưỡng cửa rồi mình t ự tay xem xét, khuân t ừng c|i móc v{o nơi cấ t giấu bí mật thân thuộc.
Người ta nói rằng trong mỗi con người có mặt phức hệ phá hoại, nó bắt đầu bi ểu hiện gần như từ khi lọt lòng, khi đứa trẻ biết ph| đồ chơi… Không phải thế! Trước khi bắt đầu xây dựng, mỗi đứa trẻ bình thường đều muốn biết thế cái này làm thế n{o?… Vật trong tay này có c ấu t ạo ra sao? Còn kết quả đạt đến đ}u, thì lạ i là việc khác. Bởi vì ngay c ả trong xưởng, những người thợ bậc cao khi sửa chữa cho bạn một vật gì đó cũng có thể đứt tay cơ m{. Vậy nên ở đ}y không thể nói phức hệ phá hoại t|c động mà là phức hệ công bằng lên tiếng. Tôi tin chắc ch ắn r ằng, tuổi thơ l{ thời gian của nh ững ph|t minh vĩ đại. Thời gian để con người khám phá ra các bí m ật kỳ lạ. Nếu trong thời gian này, con trẻ theo ý muốn c ủa chúng ta su ốt ngày ngồi bên ti vi hay trờ chơi điện t ử, thì đó không chỉ là một việc rất dở, mà còn là có t ội. C|c phương tiện ấy chẳng qua cũng chỉ là m ột cái ống kính vạn hoa n{o đấ y, là một trong các c ửa sổ nh ỏ hẹp nhìn ra th ế giới – mà thế giới thì rộng mở, bao la bát ngát vô cùng! Có biết bao nhiêu sắt thép bị b ỏ quên, không ai chú ý đến, b ị gi ẫm b ẹp cong queo, han gỉ dưới ch}n chúng ta…
Đôi lúc tôi cứ muốn kêu thật to để thật nhiều, thật nhiều các bé trai ở nước Nga chúng ta nghe thấy. C|c ch|u yêu quý! C|c ch|u đừng ghen t ị với các bạn có đồ chơi đắt tiền, được bố mẹ giầu có mua cho. Các cháy hãy nh ặt miếng sắt vụn đầy bụi dưới chân lên, phải rửa sạch nó, đ|nh số cho nó, sưởi ấm cho nó trong đôi b{n tay của mình, bằng hơi thở c ủa mình. Nó sẽ bi ết ơn c|c ch|u… C|c ch|u đứng nghĩ rằng m ọi
thứ trên đời đ~ được phát minh hết, đ~ được làm hết c ả r ồi. Có thể cha ông các cháu không chủ t}m, m{ cũng có thể do ác tâm của ai đó đ~ dẫn các cháu vào m ột khu rừng rậm rịt mà sau này các cháu ph ải phấn đấu gian kh ổ mơi vượt được ra. Hãy dũng cảm lên, c|c ch|u!… Đ}y l{ lời kêu gọi của một vị công trình sư gi{, một ông tướng đầu đ~ bạc gửi t ới các cháu.
Lúc đó tôi ngồi trên chiếc ghế băng thô r|p, in bóng song sắ t cửa sổ, đ~ không biế t bao nhiêu l ần vò đầu suy nghĩ: tại sao động cơ vĩnh cửu của tôi không làm việc? Tôi có gắng th|o nó ra trong tưởng tượ ng và sắp xếp t ất cả các chi tiết trước mặt… Nhưng, bỗng nhiên chúng bắt đầu thay hình đổi dạng và dần dần biến thành một vật gì đó trông rất quen. Vật gì nhỉ… tôi chợt hiểu đ}y không phải là các chi ti ết của động cơ vĩnh cửu mà nó là các bộ phận của chính khẩu “braoning” đ~ l{m tôi mắ c nạn. Sự việc ấy xảy ra nhiều lần với tôi. Cứ như l{ một ảo ảnh: lúc thì các chi ti ết hiện lên với c| đường viền rõ nét, lúc thì t ự nhiên biến m ất ch ỉ để lại bóng dáng trong trí nhớ phai mờ.
“M{y điếc à? – Giọng người tr ực ban đưa tôi ra khỏi tr ạng thái u mê – Lên gặp th ủ trưởng hỏi cung!” Ông thủ trưởng nói là ông ta biết chắc chắn rằng tôi cất giữ vũ khí. Có thể trước đó tôi không biết r ằng điều này bị c ấm, nhưng sau khi đượ c công an giải thích rõ tôi đ~ hiểu hậu quả gì đang chờ tôi… - Ch|u đ~ hiểu chưa?
V}ng, tôi đ~ hiể u ra nhiều điều – tôi nghĩ thế, và mãi về sau này v ẫn nghĩ thế. Sau đó người thủ trưởng bảo: - Thế thì h~y đi v{ cố gắng sửa chữa sai lầm. Đi ngay, không chậm trễ.
Hóa ra trên đờ i còn có nhiều người t ốt!… V{ thế l{ cho đến t ận gi ờ tôi vẫn không biết nh ững người b ảo v ệ tr ật t ự ở làng quê chúng tôi h ồi đó, thực ch ất họ ch ờ đợi gì ở tôi. Tôi quyết định không về nh{, m{ đến nhà chị tôi, chính làng mà tôi b ị giam. Lúc đi vào làng, tôi có c ảm gi|c như l{ có ai đó đi theo sau, có ai đó để ý t ừng bước tôi đi.
Đến nhà, tôi không dám m ở cửa ngay, cứ nghĩ l{ thế n{o người công an đến bắt tôi hôm trước cũng có mặt trong nhà. Vào nhà, không th ấy người công an đ}u, m{ chỉ thấy chị Anna tôi khóc, m ừng cuống quýt vì tôi đến bất ngờ, rồi chị ra sức dỗ dành
thuyết phục tôi đem nộp khẩu súng. Ngay t ối hôm đó Xecg}y xuất hiện. Bàn bạc xong, chúng tôi quy ết định đi ngay Kazăcxtan, đế n chỗ anh trai Xecgây. Tôi chuẩn bị cho chuyến đi dự định vào sáng hôm sau. Tôi không còn nh ớ t ại sao hôm ấy lại chỉ có mình chị tôi ở nhà, rõ thật may! Tôi cố gắng thu xếp nhanh chóng và không cho chị bi ết. Nhưng giấu th ế n{o được. Chị hi ểu h ết và ra sức c ản tr ở, khóc mãi. Tôi không bi ết làm thế n{o để chị yên, bèn bảo nếu tôi không trốn đi ngay thì sẽ lại bị bắt, có thể bị bắn và cả gia đình bị đi đ{y. Tôi nhấn m ạnh đến tình thế vô v ọng, không lối thoát. Chị hiểu, lau nước mắt, rồi giúp tôi chu ẩn bị đi xa.
Để bí mật đi khỏi l{ng, tôi v{ Gavơrin ngủ cùng một chỗ, sáng sớm đi bộ ra ga. Đêm, chị tôi dậy mấy lần ra đường ngắm trời, đo|n thời tiết sáng sớm. Đ|nh thức chúng tôi dậy, chị bảo: “Thời tiết thế n{y thì đi thế n{o được!” Quả thật suốt đêm ngoài trời có bão tuyết. Ai đ~ từng s ống ở Altai đều bi ết mùa đông ở vùng này khắc nghiệt th ế nào. Có khi chỉ trong một đêm, gió dồn tuyết lại th{nh đống che kín cả ngôi nhà. Tìm cách giữ chân chúng tôi, ch ị rán bánh xèo rất nhiều (chị biết tôi rất thích bánh xèo) và dỗ d{nh: “Cố m{ ăn thêm mỗi ngườ i một chiếc nữa! Đi đường xa biết đến lúc nào mới được ăn?” chị tôi cứ dùng dằng không muốn chia tay, hy v ọng biết đ}u đấy chúng tôi thay đổi ý định, ở lại. Còn chúng tôi l ại muốn nhanh chóng kết thúc cảnh chia tay b ịn r ịn này, nên giục nhau lên đường. Mặc xong quần |o, đứng bên ngưỡng cửa chuẩn b ị đi, thì bỗng nhiên chị tôi nhìn tôi chăm chú rồi cười: “Ủng em rách th ế kia, đi l{m sao đượ c. Có mà ngồi sưởi trên bếp lò. Lấy đôi mới c ủa chị m{ đi, để đôi cũ lại cho ch ị”. Chia tay chúng tôi xem, chị Anna còn đứng bên ngưỡ ng cửa ngóng theo chúng tôi mãi. Thật khó lòng mà kìm được nước mắt khi phải vĩnh viễn rời xa quê hương yêu dấu, rời xa những người ruột thịt gần gũi của mình. Nhưng chúng tôi đ~ l{ những người trưởng th{nh đứng trước một quyết định nghiêm túc như thế, không muốn để lộ cái yếu đuổi c ủa mình ra ngoài. Hai anh em m ỗi người quay mặt ra một phía, lặng lẽ chùi mắt… Chúng tôi lặng lẽ đi một lúc, ngó quanh, s ợ bị truy đuổi. Chẳng bao lâu chúng tôi biết rằng, xung quanh chỉ có thảo nguyên mông mênh tuyết trắng và trên tr ời là những đ|m m}y x|m nặ ng nề trôi.
Đút tay vào túi qu ần, tay tôi chạm vào cái mát l ạnh dễ chịu của kim loại, cái vật mang đến cho tôi niềm vui sướng lẫn nỗi khổ đau, bất hạnh – loại vũ khí đầu tiên mà tôi làm quen. Kh ẩu “Braoning” đượ c chuyển qua tay hai anh em m ấy lần. Chúng tôi hiểu giữ nó trong người bây giờ là nguy hiểm, phải vứt bỏ nó xuống khe rạch n{o đó
gần nhất. Nhưng vứt thế nào? Nếu giấu dưới tuyết thì mùa xuân tuy ết tan và lộ ra hết, người ta không để yên cho chúng tôi. Chúng tôi quyết định b ắn súng tiễn biệt. Gavorin có kho ảng 20 viên đạn Braoning. Bắn xong, chúng tôi tháo kh ẩu súng ra t ừng bộ phận, rồi ném rải rác mỗi thứ một nơi cách xa nhau, xu ống các khe r ạch ngập tuyết trên thảo nguyên. Ném xong chi ti ết cuối cùng, tôi c ảm thấy nh ẹ h ẳn c ả người, như vừa trút bỏ được gánh nặng trên vai. Lúc này chúng tôi c ảm th ấy bị m ất m ột c|i gì đó quý b|u, th}n thuộ c vô cùng. Chúng tôi đi l}u trong lặng yên. Mỗi người xúc động theo cách riêng c ủa mình. Lại những giọt nước mắt ngượng ngùng không muốn để ai thấy. Chúng tôi r ảo bước như chạy trốn những xúc động của chính mình.
Đi bộ nhanh, người nặng lên quá mức, như trên người gió thổi ngược ném vun vút những bông tuyết sắc vào mặt. Đi mỗi lúc khó khăn hơn. Quầ n áo bị phủ một lớp băng mỏng cứng, bắt đầu khó cử động, đi lại. Bão tuyết mỗi lúc một tăng. Muốn giơ tay lên mặt để gạt tuyết ho ặc che gió cũng khó khăn. Tuyết che kín đườ ng, chúng tôi phải đi mò, thường b ị ch ệch đường ngã dúi dụi xu ống tuyết x ốp. Bão tuyết v ẫn g ầm rú dữ dội. Không thể nói chuyện với nhau bình thường đượ c. Mỗi khi c ần trao đổi với nhau điều gì, chúng tôi ph ải dừng lại, đứng sát lại với nhau để nói. Gavơrin có đọc ở đ}u đó trong s|ch nói rằ ng khi bão tuyết lớn, kéo d{i thì ngườ i ph ải ph ải nán trong tuyết chờ khi bão thuyên gi ảm m ới đi. Nếu không, ở ngoài trời lâu, bão không biết bao giờ giảm, có thể sẽ bị chết. Chúng tôi hoàn toàn không còn khái ni ệm gì về phương hướng, đi mò tìm chỗ có nhiều tuyết x ốp để làm hang trú ẩn. Khi không cần, m ỗi l ần b ị ngã chúng tôi t ức t ối, giờ thì tìm mãi v ẫn không có chỗ nào nhiều tuyết xốp để dừng ch}n, đi trên c|nh đồng cứ như đi trên những t ảng đ|. Chúng tôi đi dò dẫm t ừng gò tuyết, t ừng cái hố một. Nếu lúc n{y trên đường đi, ph|t hiện đượ c cái hang gấu, có lẽ chúng tôi sẽ chui t ọt luôn vào không c ần suy nghĩ, cốt để tr|nh cơn b~o t{n |c n{y. Nhưng chúng tôi đ~ đến được chỗ tuyết xốp, chúng tôi t ụt xuống sâu, sâu n ữa, ngập luôn trong tuyết. Dừng lại, chúng tôi bắt đầu sửa sang hang trú ẩn. Đôi b{n tay gần như bị tê c ứng, cào bới tuyết thật khó, đôi ch}n nặ ng, cứng trong đôi ủng đóng băng giảm nền hết sức vất vả. Tôi h ỏi đùa anh bạn, xem trong s|ch có hướ ng dẫn cần phải hoàn thiện bên trong hang thế nào không? Thế l{ chúng tôi đ~ l{m xong c|i “hang gấu” cho mình. Chúng tôi ngồ i áp sát ào nhau trong hang để giữ hơi ấm. Nói chuyện ít. Rồi cơn buồn ngủ kéo đến. Gavơrin lại nhớ đoạn trong sách viết: “Khi người ta bị rét cóng, d ứt khoát sẽ không kìm được con buồn ngủ. Đ}y sẽ là giấc ngủ cu ối cùng của người đó”. Nếu chúng tôi cũng bị như thế, thì suốt mùa đông sẽ không ai tìm thấy được. Chỉ vào mùa xuân, khi tuy ết bắt
đầu tan, chúng tôi m ới t ừ t ừ lộ ra, như mọc t ừ dưới tuyết len. Nếu như trước đó chưa hóa th{nh mồi cho thú ăn thịt. Để chống lại con bu ồn ngủ, chỉ nói chuyện, thì không có hi ệu quả. Bởi vì nếu người nói không ngủ thì người nghe sẽ ngủ. Chỉ còn cách cả hai cùng h|t đồng ca mới mong tr|nh được lời cám dỗ “chợp mắt một tý”. Thảo nguyên Altai trong nh ững giờ phút chờ thời tiết t ốt đ~ được nghe biết bao nhiêu l{ b{i h|t. Chương trình ca h|t củ a chúng tô không dự tính trong m ột thời gian d{i như t hế, nên chúng tôi c ứ coi như được khán giả yêu cầu ra hát lại, đ~ h|t hai ba lầ n. Đến lúc giọng đ~ khản đặc, chúng tôi định đứ ng dậy ra ngó xem th ời tiết bên ngoài và thử xem liệu chúng tôi đ~ bị cóng trong cái m ộ chưa. Nhưng đứng dậy, sau một thời gian dài ng ồi như thế, đ}u phải dễ. Gavơrin dựa vào tôi h ết sức đứng dậy, đôi ch}n run như cầy sấy. Và bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng kêu gần như điên của Gavơrin: “H{ng r{o! H{ng r{o kìa! Tớ nhìn thấy h{ng r{o!” Tôi không tin v{o tai mình nữa. Khi chính mắt tôi nhìn th ấy hàng rào, tôi ngh ẹn ng{o sung sướng đến nghẹt thở, bất gi|c nước m ắt trào ra. Tôi không x ấu hổ vì s ự yếu đuối n{y. V}ng, đ}y l{ nhữ ng giọt nước mắt sung sướng: chúng tôi chỉ c|ch h{ng r{o nghĩa l{ chỉ cách ngôi nhà c ủa
ai đó có hai, ba trăm mét.
Chúng tôi xăng x|i vượt ra khỏi chỗ trú ẩn, ráng hết sức mới đến được mục tiêu tha thiết – ngôi nhà gỗ nông dân tuyết chắn gần ngập m|i. Người chủ nhà t ốt bụng, có l ẽ đ~ quen với m ọi sự bất ngờ có thể x ảy ra vào những khi thời ti ết như thế nay, hầu như không ngạc nhiên, khi th ấy chúng tôi qu ần áo bị đóng băng cứng đổ xô vào nhà. Ngay lập t ức chúng tôi ng ồi phịch xuống ngưỡng cửa và cảm thấy ngay hơi ấm mong đợi bao lâu t ỏa ra t ừ bếp lò đang đỏ lửa. Trong khi chúng tôi đang cởi quần áo bị băng cứng và ủng ra, thì chủ nhà cho mang vào một thùng gỗ to đầy tuyết. Ông bà chủ với c ử ch ỉ chăm sóc thật c ảm động, lau rửa chân tay tê dại của chúng tôi, nói “C|c ch|u cố chịu đựng chút nữa, mọi sễ ổn cả thôi m{!” Chưa bao giờ chúng tôi b ị đau buốt, cóng rét đến như thế , c ứ mu ốn kêu lên nhưng đ{nh cắn răng chịu đự ng. Sau khi cho ăn v{ uống nước chè đặ c xong, chủ nhà mới hỏi chúng tôi l{ ai v{ đi đ}u? Tất nhiên chúng tôi không th ể nói thật hết được. Chủ nhà chắc cũng hiểu thế, không cần vặn thêm và b ảo chúng tôi ở lại qua đêm. Chúng tôi vui sướng nhận lời. Đêm đ~ về khuya, t ựa lưng v{o th{nh lò sưở i nóng, bỗng nhiên tôi c ảm th ấy luồng hơi ấm dễ chịu ch ảy khăp cơ thể rồi hòa với l ớp sương mù mềm, ấm… Lần đầu tiên trong đời, tôi bị mê man bất t ỉnh. Ôn bà chủ nhà t ốt bụng m ột lần nữa lại t ất bật, lo
lắng cho tôi… Hôm sau thời tiết vẫn xấu. Đi trong thời tiết như thế hóa có l{ người điên. Chúng tôi đ{nh phả i ở lại đợi thêm vài ngày. Cuối cùng thì tr ời cũng lặng gió sáng sủa, chúng tôi c ảm ơn ông b{ chủ t ốt bụng, tiếp t ục đi xa. Khi đến gần ga đường s ắt chúng tôi sợ b ị truy đuổi, nên đi riêng từ ng người một, và tránh l ọt vào mắt công an. Nhưng sự đề phòng ấy hóa ra không c ần thiết. Không có ai truy tìm chúng tôi c ả.
Trên t{u đi về ga đích, nằm ở t ầng ba (chỗ để h{nh lý v{ người không vé) chúng tôi bàn luận v ề các sự kiện đ~ xảy ra. Bỗng dưng chúng tôi lặ ng buồn, nhớ nhà, nhớ người thân ruột thịt, chỉ mong nhanh chóng báo tin v ề để m ọi người an tâm. Chúng tôi hẹn nhau, đến nơi ổn đị nh chỗ ở xong, thì s ẽ viết thư về nhà, gửi qua bà con họ hàng xa.
Chúng tôi đến ga Matai, Cazăcxtan, tìm đến xưở ng h ỏi thăm anh trai Gavorin. Anh không ngờ chúng tôi đến trong mùa đông, khi c|c trường đang học, nhưng nghe chúng tôi giải thích không được rõ ràng lắm, anh hiểu không có cách gì khác, c ần phải giúp chúng tôi. Khi về đến nhà, anh bảo: “Thôi thế này, giờ thì các cậu c ứ ở đ}y đ~. Vợ ch ồng anh sẽ ở trên xe. Rồi chúng mình cũng sẽ tìm được cho các c ậu chỗ ở”. Tôi nghĩ bụ ng hay là mình nghe nhầm: ở “trên xe” l{ ở thế nào? Hóa ra là r ất nhiều cán bộ nhân viên xưởng hỏa xa sống ở trên các toa t ầu, hay như ở đ}y người ta gọi l{ “buồng sưởi”. Chúng tôi vào toa – “căn hộ” được ngăn ra th{nh c|c phòng nhỏ bằng các t ấm chăn treo. Trong điều ki ện như vậy nhưng có b{n tay phụ nữ sắp xếp, nên ta vẫn th ấy hơi ấm của một căn nh{. Bên th{nh toa l{ mộ t chiếc ấm nhỏ trên phủ khăn trải bàn trắng, bên chậu rửa mặt treo một chiếc khăn thêu, cạnh cửa sổ trên gi| đỡ có một chậu hoa đang mọc, rồi khung kính v ới các tâm ảnh đ~ mờ vì thời gian và bụi khói đầu t ầu. Mở hé chiếc chăn, chúng tôi bước v{o bên trong “phòng”. Ở đ}y kê chiếc giường sắt, có đủ chăn, đệm, ga, gối. Tóm lại, căn hộ l{ căn hộ! Sau khi thu x ếp gọn g{ng “trên xe”, chúng tôi mớ i kể hết ngọn ngành câu chuy ện phiêu lưu vừa qua. Ti ếp đến là thảo luận vấn đề muôn thuở: “Sống tiếp thế nào đ}y?”. Chúng tôi thống nhất với nhau, sáng hôm sau c ả ba cùng lên g ặp xưởng trưởng xin việc làm. Cuộc sống lao động của tôi bắt đầu. Gavơrin đ~ qua khóa huấ n luyện được nhận làm kế toán viên, còn tôi làm nhân viên ki ểm kê cùng ở phòng kế toán. Chúng tôi được phân chỗ ở trong một toa có ghế nằm được gọi rất oai l{ “Nh{ d{nh cho c|n bộ nhân viên kỹ thuật”. Chúng tôi bắt tay vào công vi ệc thật hăng h|i, thật tích cực. Chúng tôi cố gắng trong một thời gian nhanh nh ất nắm vững chức trách được giao.
Bao quanh chúng tôi là m ột bầu không khí thi ện chí và sự quan tâm mà chúng tôi cảm thấy ngay t ừ đầu. Điều đó đ~ giúp chúng tôi nhiều trong công vi ệc. Chúng tôi thật sự hài lòng về cu ộc sống mới đ~ bén rễ ở nơi đ}y. Chỉ biết nói rằng: chúng tôi đ~ gặp may. Sau mấy tháng làm việc, tôi nhận được quyết định điều lên phòng chính tr ị làm Bí thư đo{n thanh niên phụ trách kỹ thuật. Phòng t ổ ch ức b ảo tôi nộp hai cái ảnh m ới. T ối hôm ấy tôi lấy chiếc ảnh cũ của tôi ra ngắm kỹ: hai m| lõm s}u… Rất vui là ảnh in ra trông tôi r ắn chắc khỏe mạnh, riêng vẻ mặt thì như người ta nói đùa: gạch đập không vỡ. Trên ảnh, đôi mắt của bí thư Đo{n phòng chính trị đoạn đường sắt Xibêri – Turkêxtan th ật nghiêm nghị, như muốn nói: chớ có lại gần.
NHỮNG NĂM LÀ LÍNH Mùa thu năm 1938, tôi được gọi nhập ngũ v{o Hồng quân công nông.
Ở địa điểm t ập trung, tôi ghen t ị nhìn các b ạn cùng tuổi được gọi vào các binh chủng không quân, h ải quân, pháo binh và thi ết gi|p. Nhưng thông thường những người được lấy vào cá binh chủng đó đều là những người vạm v ỡ “vai năm tấc rộng” – tôi l{m sao m{ s|nh đượ c với họ! Nhưng tôi lại gặp may. Ng{y nay chúng ta đ~ đưa v{o sử dụng quá nhiều những t ừ ngoại lai và nh ững khái niệm có vẻ như hiện đại nhất. Ngoài những t ừ đ~ l{m ch|n ngấy m ọi người như “đa nguyên luận” rồi “đồng thuận”; lại còn “cởi mở”, khoan dung” - thôi thì không thiếu t ừ gì nữa! Người ta thay đổi hết thần tượng phương T}y n{y sang thần tượng phương T}y khác. Ta ch ỉ nghe thấy rặt những tên: Carrêgi, trường cao đẳ ng Havvard. Vào thời ấy đã có những thần tượng khác và những t ừ kh|c, nhưng cả lúc ấy và bây giờ tôi sẵn lòng trả lại h ết những c ủa l ạ này chỉ để đổi l ấy một câu chuyện thần thoại duy nhất và chàng ng ốc Ivan. Đ~ gầ n một trăm năm chúng ta kiên nhẫn chịu đựng để ngươi ta gi{y xéo xuyên t ạc các khái niệm như l{ ý thức t ự giác của nhân dân, tâm hồn Nga, tính c|ch Nga. Người ta chỉ nh ắc đến nh ững khái niệm đó v{o lúc hiểm nguy chung – Như l{ Xtalin đ~ khơi dậy trong cuộc chiến tranh Vệ quốc; thế nhưng cũng không nên lợi dụng để đầu cơ một c|ch trơ trẽn đế n thế. Nhìn lại quá kh ứ để m ột l ần n ữa (không biết l ần th ứ bao nhiêu rồi!) đ|nh gi| mọi việc m ột cách t ỉnh t ảo. Tôi không th ể không cảm ơn số ph ận đ~ d{nh cho tôi một s ự giáo dục truyền thống dân t ộc dựa trên nền t ảng uy tín thiêng liêng và v ững chãi của c|c nh{ kinh điển Nga: Puskin, Gôgôn, Lecmônt ốp, Nêcraxôép… Tất c ả những tác giả còn lại chỉ là những người kế t ục họ. Sự hun đúc truyền thống dân t ộc này, không ch ỉ làm nền t ảng tinh thần vững chắc cho cuộc sống mà còn là t ấm giấy thông h{nh để tiến cao chiếm lĩnh c|c lĩnh vự c mà không m ột Carnêgi, m ột Habbard nào cùng v ới những động sự của họ có thể giúp được.
Đối với tôi, một thanh niên còn rất trẻ, thật nhẹ nh{ng v{ sung sướng đượ c tiếp xúc với các thợ máy xe hỏa lớn tuổi, những con người tuyệt vời lái nh ững đo{n t{u siêu nặng trên những tuyến đường xa, với nh ững người thợ sửa ch ữa t{i năng nhiề u kinh nghiệm và những bạn bè cùng lứa mới vào làm ở đêpô xe hỏa… Tình bạ n với họ sau n{y đ~ sưởi ấm suốt đời tôi, và ch ỉ cần một mẩu tin ngắn cũng đủ làm tôi phấn khởi, chưa nói đến những bức thư kể t ỉ m ỉ thì tôi luôn tìm cách tr ả l ời ngay, dù cho
có bân bịu thế n{o chăng nữa. Chính tình b ạn đó, ngo{i những c|i kh|c ra, đ~ dạy cho tôi tình yêu đối sôi nổi, mà sau này không th ể r ời xa tôi được n ữa, đôi với công việc sau chiếc bàn nguội đơn giản, đồ ng thời không chỉ d ạy tôi những những bài học đầu tiên m{ còn hướng t ới bí quyết chính của nghề: tay nghề – đó chính l{ sự sáng t ạo hứng khởi.
Khi tôi đến địa điể m t ập trung để gặp người phụ trách ủy ban tuyển quân, thực sự tôi cảm thấy không chỉ có mình tôi, m{ còn có bao nhiêu con ngườ i tuyệt vời khác cũng đến, họ là những đồng chí của tôi. Tôi nói r ằng t ừ bé tôi r ất yêu máy móc k ỹ thuật, v{ cũng có biết chút ít về chúng. Thế còn d|ng người th ấp bé thì để cho người nào lực lưỡng to lớn mà tôi cùng ph ục vụ xe tăng sẽ được rộng r~i hơn.
Tôi được điều về đại đội huấn luyện l|i xe tăng. Chúng tôi được huấn luyện về binh khí k ỹ thuật, cũng như c|c môn qu}n sự kh|c, trong đó có huấn luyện đội ngũ. Các cán bộ ch ỉ huy rất chú ý uốn n ắn tư thế, tác phong, trang ph ục, đi đều trong đội ngũ, biết hát các bài hành khúc. Tóm l ại là dạy việc thực hiện chuẩn xác các ch ức tr|ch theo điều lệnh. Một lần ở Igiepxk khi Cachia – vợ tôi – đ~ mất, mọi việc nh{ đều do do Natasa, con g|i út tôi, đảm đương, tôi v{ thắng cháu ngoại Igor quyết định t ặng Natasa một món quà nhỏ, chúng tôi sẽ t ự nấu một bữa trưa liên hoan. Việc đầ u tiên là g ọt khoai tây. Khi mới bắt đầu, Igor đ~ hỏi: “Ông họ c bao giờ mà gọt nhanh thế, chẳng ai kịp ông!” Tôi hỏi lại: “Sao lạ i ở đ}u?… Ở Hồng quân chứ ở đ}u. Khi ông bị phạt phải làm dưới nhà bếp!” Thời gian phục vụ trong qu}n ngũ cứ thế trôi qua: các bu ổi lên lớp học khí tài, nghiên cứu mọi chi tiết cơ bản của xe tăng v{ vũ khí. C|i chủ yêu đối v ới người thợ máy – lái xe, và có lẽ đối với t ất cả t ổ lái, là n ắm vững: “binh khí” v{ sử dụng thành thạo trong mọi điều ki ện. H ọc lý thuyết k ết h ợp v ới th ực hành lái, và b ắn các loại vũ khí. Trong thời gian học t ập n{y, tôi đ~ chú ý ngay đế n sự bất tiện khi bắn trung liên TT (Tôcarép Tula), lo ại này mới được trang bị cho bộ đội tăng. Loại súng máy này quay t ự do không phân biệt b ắn ở ngoài công sự t ự nhiên hay bắn qua khe hẹp trong xe bọc thép. Mà phải nạp đạn lại, trong khi hộp đạn dung tích nhỏ. Tôi bỗng nhớ lại kh ẩu “braoning” bất hạnh của mình và nh ững bài học đầu tiên về vũ khí liên quan với nó… Sử dụng được! Tôi đ~ l{m được “bộ g|” giúp cho khi bắn
qua khe trong tháp xe d ễ ngắm hơn, nghĩa l{ có hiệ u quả hơn. Hộp đạn tôi đề nghị cải tiến có cấu t ạo độc đ|o hơn v{ cũng đượ c thông qua. Tôi làm việc say mê, v{o xưởng lúc n{o cũng được, miễn là bảo đảm gi ờ h ọc càng ngày càng nặng.
Lý do l{ vì th|ng 5 năm 1970 Ghêôcghi Konxtantinôvích Giucố p tr ở th{nh tư lệnh qu}n khu đặc biệt Kiép. Uy tín và tên tu ổi của vị tướng Nga vĩ đại này, ngày nay bu ộc ta phải lục lại trong trí nhớ những chi tiết mà khi nhắc lại ta thấy đều qua rồi. Còn một đặc điểm n ữa nổi b ật trong mùa hè v{ mùa thu năm 40 có liên quan trự c tiếp đến việc G.K. Giuc ốp tr ở th{nh Tư lệnh quân khu là công tác phát huy sáng ki ến, cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa được tiến hành rất tích cực v{ được quan tâm. Trong trung đo{n chúng tôi đ~ tổ ch ức m ột gian trưng b{y đặ c bi ệt. Trên đó có treo c|c tờ rơi ghi c|c chuyên mục vấn đề nêu ra cho các nhà sáng ki ến đơn vị tham gia giải quyết. M ỗi chuyên m ục có tính định hướng thực t ế trước h ết nh ằm vào việc c ải ti ến sử dụng và bảo dướng khí tài và trang b ị. Các cán b ộ chỉ huy đảm bảo duy trì và phát triển bằng mọi cách, b ầu không khí sáng t ạo trong trung đo{n chúng tôi.
Đ|ng tiếc là ngày nay tôi đ~ quên mất tên những người đ~ đảm b ảo cho chúng tôi luôn luôn có điều ki ện để tham gia vào các cu ộc thi tìm tòi sáng t ạo th ật đặc s ắc h ồi đó. Điều này có lẽ liên quan đến những đặc điểm của “bộ nh ớ” của tôi. Khi có th ể rút ra ngay được t ừ trong bộ nhớ đó một chi tiết kỹ thuật nhỏ bé nhất n{o đó m{ có lẽ bạn chẳng bao giờ cần đến cả. Như l{ đi ngược lại ý muốn, bộ m|y đó lưu giữ lại những tính năng kỹ thuật của các loại vũ khí m{ từ lâu thế giới không còn dùng để bắn n ữa. Thế nhưng những gì liên quan đến vi ệc nh ớ m ặt, nhớ tên người, thì quả là tôi có lỗi. Trí nhớ chỉ lưu giữ t ừng đoạn hồi ức rời rạc nhất. Vào một ngày mùa hè nóng n ực, đại đội chúng tôi trở về t ừ trung tâm huấn luyện. Hình như bụi thao trườ ng luồn lách qua cả vỏ bọc thép thấm vào t ận bên trong. C ả tiểu đội phải ra sức lao động để cho t ừng chi tiết, t ừng cơ cấu bóng lo|ng như mớ i. Vào lúc ấy đại đội trưởng, một người đầy nghị l ực v ẫn thường xuyên nêu ra các ý tưởng để chúng tôi tìm tòi sáng t ạo, g ọi tôi ra kh ỏi hàng và nói chuy ện. Ông cầm l ấy tay tôi thân mật như một người cha rồi hỏi: - Misa n{y, ch|u đ~ đến xem thông b|o trên gi| trưng b{y chưa? Thế nào cháu cũng phải xem người ta viết gì ở đó. Thông b|o đề ngh ị nh ững người th ợ lành nghề tham gia cuộc thi chế t ạo chiếc đồng hồ đo rất cần cho những người lính xe tăng chúng ta. Chắc cháu sẽ quan t}m đến vấn đề n{y. M{ ch|u cũng sẵn có kinh nghiệm.
Cần ph ải ghi công xứng đ|ng cho đại đội trưởng chúng tôi, vì ông l{ ngườ i bi ết rõ đặc điểm cá nhân của t ừng người chúng tôi, ông bi ết đi s}u vào tâm hồn con người, biết ch ạm đúng v{o sợi dây tình c ảm c ần thiết n{o đó trong t}m hồn con ngườ i. Ông l{ người phát hiện rất nhanh niềm say mê “sắt thép” của tôi, nguyện vọng tìm hiểu sâu sắc chúng, và c ả nh ững dự định r ụt rè thi ết k ế c|i gì đó của tôi. Tôi chưa kịp đến đại đội b|o c|o, thì đại đội trưở ng gặp tôi trên đường đ~ đưa tôi v{o tham gia cuộ c thi chế t ạo m|y đếm qu|n tính để xem số lượng thực t ế số đạn bắn ra t ừ pháo. Tôi không đi s}u v{o chi tiết, chỉ nói rằng chiếc m|y đếm n{y giúp tăng hỏa l ực bắn t ập cho bộ đội xe tăng.
Trong kho lưu trữ của tôi, th ật may mắn, còn giữ được t ờ nhận xét gần 50 năm về trước c ủa các chuyên gia v ề chiếc máy do tôi chế t ạo: “M|y đếm đơn giản trong chế t ạo và hiệu quả trong sử dụng”. có lẽ đ}y l{ sự thừa nhận chính thức đầu tiên về hoạt động sáng chế mới manh nha của tôi. Tôi nh ớ lại với lòng biết ơn người đại đội trưởng đầu tiên của tôi đ~ biết nhận ra thiên hướng sáng t ạo kỹ thuật trong con người một chiến sĩ Hồng quân gầy gò, xương xẩu như tôi. V{ ngườ i không chỉ nhận ra, mà còn t ạo điều kiện cho tôi phát tri ển. Tôi đặc biệt chú ý đến m ục đề nghị thi hành tham gia thi ết kế đồng hồ định vị sự làm việc của động cơ xe tăng có tải và chạy không. Những chữ sau được in đậm: “Việc chế t ạo chiếc đồng hồ nói trên có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với các chiến sĩ xe tăng” Ý tưởng chế t ạo chiếc đồng hồ đó đ~ cuốn hút tôi. Đại đội trưởng đ~ đế n giúp tôi. Ông t ạo điều kiện cho tôi tính toán vào gi ờ t ự học, đưa tôi lên xưởng đồng hồ của trung đo{n, tôi thường ở đó v{o thời gian rỗi sau khi ăn tói. Tôi không kể lại chi tiết việc chế t ạo đồng hồ. tôi chỉ muốn nói l{ tôi đ~ ho{n th{nh xong trong mấ y tháng. Không biết ai l{ người sung sướng hơn: tôi hay đại đội trưở ng khi tôi báo cáo v ới ông kết quả này. Tôi xin phép cho th ử đồng h ồ trên xe tăng của mình. Đồ ng hồ được lắp vào nhanh chóng. Ph ải thừa nhận rằng chúng tôi vô cùng ng ạc nhiên khi x|c định được rằng đồng hồ hoạt động một cách chắc chắn v{ định vị chính xác sự làm việc của động cơ xe tăng khi có tải và khi ch ạy không. Chiếc đồng hồ được quyết định gửi lên các chuyên gia c ủa qu}n khu để thẩm định. Trung đo{n trưởng ký lệnh cử tôi lên ban tham mưu qu}n khu công t|c. Tôi không biết rằng lần đi Kiép ấy tôi đ~ vĩnh viễ n chia tay với đơn vị thân yêu của tôi. Tất nhiên tôi không th ể biết được. Tôi dự tính sau vài ngày tôi s ẽ trở về. Tôi biết mọi người: cả đại đội và cả trung đo{n đang chuẩn bị cho cuộc t ập trận lớn trước mắt. Nhưng tôi đ~ không được d ự cu ộc t ập tr ận. Việc ch ế t ạo chiếc đồng h ồ đ~ được báo lên đại tướng G.K. Giucốp. Ông ra lệnh cho người chế t ạo lên gặp ông.
Tôi rụt rè bước vào phòng làm vi ệc của vị tướng lừng danh, người anh hùng của các trận đ|nh trên sông Khankhin -Gôn. Khi đứng trước thủ trưởng báo cáo có m ặt, giọng tôi lạc đi. V{ có lẽ nhận ra tâm trạng tôi lúc đó, ông mỉm cườ i. Vẻ nghiêm khắc trên khuôn mặt rộng của ông biến mất, chỉ còn lại cách nhìn t ốt l{nh đầy thiện chí.
Tư lệnh không phải chỉ có một mình. Trong phòng làm vi ệc còn có một số tướng lĩnh v{ sĩ quan nữa. Tất cả đều chăm chú xem bản vẽ và c|i đồng hồ. - Tôi muốn nghe đồng chí Kalasnhic ốp – G.K. Giuc ốp quay về phía tôi. – kể cho chúng ta nghe về nguyên lý hoạt động và công dụng của chiếc đồng hồ. Thế là lần đầu tiên trong đời tôi được b|o c|o trướ c một ủy ban đường bệ như thế về sáng kiến của mình. Tôi đ~ nói mộ t cách chân thành về nhưng mặt mạnh, mặt yếu của chiếc đồng hồ. Về sau này, trong su ốt năm mươi năm hoạt động sáng chế đ~ nhiều lần bảo vệ các mẫu vũ khí mới chế t ạo, bảo vệ c|c quan điểm của mình, phải tranh đấu giành quyền thực hiện c|c ý tưởng thiết kế vào cuôc s ống, v{ cũng nhiều khi bị phản bác. Th ế nhưng, vì hồi hộp, bản b|o c|o đầu tiên này của tôi, có ph ần lộn xộn đ~ ghi s}u trong ký ức tôi suốt đời.
Tư lệnh kết luận rằng chiếc đồng hồ quán tính này có cấu t ạo độc đ|o, v{ đương nhiên cho phép ki ểm tra tuổi th ọ của động cơ xe tăng với độ chính x|c cao. Điều đó cho phép n}ng cao trình độ sử dụng khí tài, t ạo ra khả năng tiến hành có hiệu quả các biện pháp nhằm tiết kiệm nhiên liệu và vật liệu bôi trơn. Tóm lạ i là chế phẩm của tôi được đ|nh gi| cao. Sau cuộc nói chuy ện với Tư lệnh, tôi đượ c c ử đến trường Trung cấp kỹ thu ật tăng Kiép. Xưởng trường có nhiệm vụ sản xuất hai mẫu đồng hồ đo thí nghiệm và thử toàn diện trên các xe chiến đấu. Trong một thời gian ngắn nhiệm vụ đ~ được hoàn thành. Lần thứ hai tôi l ại được gặp Đại tướng Giucốp, sau khi ti ến hành thử nghiệm xong. Lần này thời gian làm vi ệc ngắn hơn lần trước. Tư lệ nh biểu dương tôi vì có s|ng kiến t ốt và tuyên bố t ặng thưởng tôi một món quà có giá tr ị là chiếc đồng h ồ. Sau đó tôi được cử đến một đơn vị thuộc qu}n khu M|txcơva để tiến hành thử nghiệm so sánh. Chiếc đồng hồ được t ặng tôi không còn gi ữ. Nhưng một lần nhà báo Kixelép, trong bức thư gửi tôi, đ~ nhắc lại những ngày không quên vào cu ối năm 1940 ấy. Chả là khi tìm tư liệu lưu giữ, nh{ b|o vô tình đọc đượ c bài kể lại buổi Đại tướng Tư lệnh quân khu Giucốp tiếp chiến sĩ Kalasnhicốp trong t ờ “Hồng qu}n” của quân khu.
Ngày nay, khi mà xung quanh tên tu ổi tôi, mu ốn hay không muốn, người ta đ~ thêu dệt biết bao nhiêu huyên tho ại các kiểu, trong đó có c}u chuyện: v{o năm bố n mốt, khi m{ nước Nga đang trả i qua những ng{y th|ng khó khăn nhấ t, Kalasnhicốp đ~ được nguyên soái Giuc ốp gọi lên và l ệnh: Qu}n đội đang cần một loại tiểu liên chất lượng cao! Cốt truyện n{y được người nướ c ngoài rất ưa thích, m{ đầu tiên cũng bở i t ại m ột nh{ b|o n{o đó trong nước đ~ “thêm mắm, thêm muối” rằng vị nguyên so|i vĩ đại, với tình cảm cha con, thân m ật vỗ vai trung sĩ m{ rằng: “Con trai cưng, ta hy vọ ng
v{o con!”
Tất nhiên, suy diễn như thế là có hại, b ởi d ần dần chính bản thân Kalasnhic ốp sẽ quen với câu chuy ện cảm động này và vỗ ngực kể toáng lên khắp nơi, rằng: năm bố n mốt nguyên soái g ọi t ớ lên và nói: các chi ến sĩ đang đợi ở cậu loại vũ khí đầy hy vọng…
Đối với tôi sự việc hoàn toàn không thế, mà hơi kh|c; lúc bấy giờ một anh lính trơn như tôi đứng trước một vị tướng tiếng tăm như thế, thì không th ể tránh khỏi sự hồi hộp, lo sợ, đan xen với tình cảm ngưỡng m ộ, tôn kính và m ột chút t ự hào về phát minh của bản th}n, nhưng… cũng h~i lắ m chứ, nhỡ bỗng nhiên các v ị tướng thông th|i m{ Tư lệnh quân khu triệu t ập đến kia, kết luận r ằng sáng kiến c ủa tôi quá thô sơ, không có ý nghĩa thì sao? Và còn một điều nữa. Tất nhiên, trong cuộc tìm kiếm người đỡ đầu theo ý muốn chủ quan hay ngoài ý muốn chủ quan về sau n{y đ~ nhiều lần tôi suy nghĩ về Ghêoocghi Konxtantinôvích Giucốp.. V}ng, trước khi được ông, đ~ có nhiều người giúp đỡ, khuyên răn, ủ ng hộ với t ất c ả kh ả năng v{ tấm lòng. Nhưng riêng Ghêoocghi Konxtantinôvích, thì ông đ~ hoan nghênh, m ột cách thiết thực nhất. Kể t ừ khi được gặp ông, cuộc đời tôi đ~ có những bước ngoặt lớn: tôi, một anh lính ph ục vụ theo niên h ạn, trước chiến tranh không lâu mới bước v{o con đường thiết kế gian nan n{y, m{ nay đ~ có chiếc m|y đo đưa đi thử ngoài chiến trường, đảm bảo chất lượng được cá chuyên gia quân s ự kỹ tính thông qua và giới thiệu để sản xuất hàng loạt. Tôi không trở về đơn vị cũ, theo lệnh của Tổng cục trưởng Tổng cục tăng – thiết gi|p tôi được điều về nhà máy chế t ạo ở Lêningrát. T ại đ}y, sau khi sửa chữa các bản vẽ thi công, chiếc m|y đo được đưa v{o sản xu ất hàng loạt. Khi ấy l{ mùa xu}n năm
1941…
Ở Lêningrát, lần đầu tiên trong tôi d ậy nên những cảm xúc lạ kỳ: cảm xúc của cái “tôi” tư hữu, c ảm xúc của m ột nhà sáng ch ế, sinh ra được c|i “của tôi!” Tôi thật súng
sướng đến ngỡ ngàng, khi nhìn th ấy các chi tiết mà tôi t ừng v ắt óc suy nghĩ giờ đ}y được người khác làm th ật hào hứng v{ đầy chất lượng! Hầu như chi tiết nào làm xong, tôi cũng muốn nâng niu trên tay và ng ắm nghía không biết chán. Mẫu máy do chế thử của tôi đ~ được thử th{nh công trong điều kiện của phòng thí nghiệm nhà máy. Trong b ản thuyết trình gửi về Tổng cục tăng – thiết giáp Hồng quân công nông do ch ủ nhiệm thiết kế nhà máy kí, có ghi rõ: so v ới chiếc m|y đo hiện hành, mẫu mới đơn giản hơn về thiết kế, độ tin cậy cao hơn, trọng lượ ng và kích thước nh ỏ hơn. Cuối b ản thuyết trình, kết luận như sau: “Dựa trên cơ sở m|y đo do đồng chí Kalasnhicốp đề nghị, có thiết kế đơn giản v{ đạt kết quả t ốt trong thí nghiệm, tháng bảy năm nay nh{ m|y đ~ ho{n thiệ n các bản vẽ thi công và ch ế t ạo mẫu để thử toàn diện, lần cuối trước khi cho s ử dụng trong c|c xe đặc dụng”. Thật đ|ng tiếc vi ệc th ử toàn diện đ~ không được ti ến hành. Bản thuyết trình được ký ng{y 24 th|ng 6 năm 1941 – hai ng{y sau khi ph|t xít Đức t ấn công Liên Xô. Cu ộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bắt đầu. Vài ngày sau, tôi t ạm biệt nhà máy, t ạm biệt các công nhân, k ỹ sư đ~ trở thành thân thiết với tôi trong quá trình c ộng t|c căng thẳng vừa qua. Tôi nh ớ suốt đời lời t ạm biệt của chủ nhiệm thiết kế lúc chia tay: - Anh bạn trẻ hãy chiến đấu thật t ốt. Chiếc máy của b ọn chúng mình nh ất định sẽ hoàn thành, sau khi chúng ta nhanh chóng chi ến thắng quân thù. Khi ấy chúng tôi nuôi m ột ni ềm tin cháy b ỏng v{o “chiến th ắng nhanh chóng” củ a chúng ta. Hầu như tất cả chúng tôi đều đinh ninh tin tưở ng rằng chúng ta sẽ chiến đấu hoàn toàn phù h ợp với học thuyết quân sự Xô viết “tổn thất ít ngay cả ở trên lãnh thổ nước ngo{i”.
Trên đường đi về đơn vị, tôi cũng nghỉ thế. Nhưng biết tìm đơn vị ở đ}u? Đ{i đưa tin th{nh phố Xtrưi miên T}y Ucraina nơi đơn vị tôi trú qu}n đ~ rơi v{o tay qu}n địch. Trên đường tìm đơn vị, tôi đ~ gặ p một trường hợp xảy ra khá bất ngờ và thú vị. Đến gần Kháccốp, tàu chúng tôi d ừng lại ở một ga. Kiểm tra xong giấy t ờ một số bước xuống s}n ga. Nh}n viên đườ ng sắt nhắc chúng tôi chú ý k ẻo nhỡ tàu. Trên sân ga lúc ấy, rất nhiều chiến sĩ tập trung lên tàu. M ọi người vội v~ lên t{u để chiếm chỗ, tiếng í ới gọi nhau khắp nơi. Bỗng nhiên tôi nghe th ấy một giọng nói quen quen. Chưa kịp định hướ ng tiếng nói t ừ đua thì thấy một đo{n t{u h{ng, toa trầ n phủ bạt nổi hình xe tăng, ngay trên đườ ng tàu bên c ạnh. Trên m ột toa tôi th ấy đồng chí
chuẩn úy lực lưỡng trưởng xe chúng tôi đang đứng, ngườ i rất thích tiếng kêu tích t ắc của chiếc đồng hồ quả quýt do ông nội, người đ~ tham gia thế chiến thứ nhất để lại. Tôi gọi gi ật giọng Chuẩn úy v{ lao nhanh đến toa anh đứ ng, hai anh em g ặp nhau bất ngờ, chúng tôi lặng đi, một lúc sau mới t ỉnh lại, chỉ biết xuýt xoa v ỗ vai nhau. Hóa ra, trước chiến tranh không lâu, các lái xe c ủa đơn vị đi Ural để nhận khí tài mới. Riêng xe chúng tôi không b ổ sung lái xe m ới, đợi tôi về, nên buộc trưởng xe phải đến nhà máy nhận xe. Thế là cuộc chiến đ~ đưa anh em về cùng trung đo{n chúng tôi gặp nhau trên đường. Và, tôi nhận v{o đơn vị mới ở ngay một ga nhỏ gần Kháccốp. Trong khi tôi mải mê tay bắt mặt mừng với anh em cùng đơn vị thì đo{n t{u của tôi đ~ rờ i khỏi sân ga, mang theo chi ếc áo khoác và cái va ly c ủa tôi. Cũng may l{ giấ y t ờ tôi mang theo người v{ xung quanh tôi l{ đồng độ i cả. Khi biên chế vào đơn vị, tôi được chỉ định l{m trưởng xe, v{ đượ c phong quân h{m Thượng sĩ. Tiể u sử tôi lật sang trang m ới: trang mặt trận. Bây giờ thật khó nhớ lại t ừng giai đoạn chiến đấu một. Giai đoạn đầu như đ~ rõ, qu}n đội Xô viết ở tình thế b ất l ợi, trong nhiều trường h ợp, có thể nói l{ bi đ|t. Tiể u đo{n chúng tôi đôi lúc không rõ mình đang chiến đấ u ở đ}u: ở h ậu phương địch hay đang ở tiền duyên. Liên ti ếp h{nh qu}n cơ độ ng, lúc thì t ổ chức đ|nh v{o sườn địch các trận t ấn công ngắn ngủi, nhưng |c liệ t, lúc thì lui v ề phía quân ta. Ph ần lớn chúng tôi được tung vào những nơi bộ binh ta gặp khó khăn. Tôi không phải chiến đấu l}u. V{o đầu th|ng 10 năm 1941, trong mộ t trận đ|nh gần Brianxk tôi b ị thương nặng. Khi ấy trong một đợt phản kích, đại độ i tôi xông vào cạnh sườn qu}n Đức, đ~ đụng phải đại đội ph|o binh địch. Chiếc xe tăng đầu tiên bị bắn ch|y l{ xe đại đội trưởng. Sau đó, bấ t thình lình trong tai tôi vang d ội tiếng nổ to, trước mắt bùng lên ngọn lửa chói sáng d ữ dội…
Tôi không rõ đ~ bấ t t ỉnh bao lâu, có lẽ là khá lâu và khi t ỉnh d ậy thì đại đội đ~ rút ra. Ai đó định cởi áo cho tôi. Vai trái và tay trái c ảm gi|c như của ngườ i khác. Ti ếng ai đó thoảng qua như trong giấc mơ: - Thằng này t ốt số thật!
Vai tr|i tôi đ~ bị mảnh đạn văng ra từ trong xe xuyên th ủng. Tay trái không c ử động được. Tôi lơ mơ không rõ điều gì đ~ xả y ra với tôi và xung quanh tôi. Hóa ra, người b|c sĩ trưởng mà tôi cảm thấy rất gi{ x|c định tôi bị dập thương
Tiểu đo{n trưởng ra lệnh chuyển số bị thương nặng về đại đội qu}n y. Nhưng nó ở đ}u, khi chính chúng tôi đang ở trong hậu phương của địch? Tôi xin ở lại, nhưng không được.
Lúc đầu, 15 chiến sĩ bị thương, chúng tôi được chở trên chiếc xe t ải, có b|c sĩ v{ nữ y t| đi hộ t ống. Tôi chỉ còn nhớ tên người lái xe là Côlia. Có l ẽ chính vì anh là ch ỗ dựa chắc ch ắn cho chúng tôi trên đường đi, lúc ấ y phần lớn chúng tôi không t ự do đi lại được. Xe đi đến chập choạng t ối, thì đến gần một l{ng, b|c sĩ cho xe dừng lại, và cử ba người đi được g ồm trung úy bị h ỏng tay, lái xe Côlia và tôi vào làng trinh sát xem có qu}n Đức hay không. Cả ba được trong bị súng ngắn v{ súng trường. Mới vào, trong làng rất yên tĩnh, hoang vắ ng. Những ngôi nhà g ỗ đen sẫm, u t ịch, có cảm giá trong mỗi ngôi nh{ đều ẩn náu, rình rập mối nguy hiểm n{o đó. V{ quả thật, trên đường làng bỗng vang lên một tr{ng liên thanh hướng v ề phía chúng tôi. Chúng tôi n ằm ép mình xuống đất, bò qua c|nh đồ ng khoai tây trở lại rừng. Bỗng nhiên, t ừ phía chiếc xe t ải đỗ có tiếng súng liên thanh n ổ. Anh trung úy rít qua kẽ răng: “Qu}n chó để u. Nó bắn b ằng tiểu liên đấy – giá mà ta có l ấy m ột khẩu”. Tôi kẹp khẩu súng trường TT giữa hai đầu hối, dùng tay phải lên quy lát. Chúng tôi lom khom qua các b ụi cây, tiến về phía súng. Tôi không hiểu điều gì sẽ x ảy ra, nếu chúng tôi đến s ớm độ hai – ba phút. Còn lúc này thì bọn Đức đi trên c|c xe môtô ba b|nh đ~ mấ t hút sau ch ỗ ngoặt của con đường rừng. Trước mắt chúng tôi là m ột cảnh h~i hùng!… Nhưng người nào trèo xuống được thì bị bắn chết dưới đất, còn những người n ằm trong thùng xe thì b ị lê đ}m lỗ chỗ khắp thi thể. - Chúng mình m{ không đi, khéo cũng bị ! – Côlia lẩm bẩm giục mọi người đi nhanh. Chúng tôi lại chạy, núp trong cá b ụi cây nghe ngóng, l ấy sức chạy tiếp, tránh xa con đường rừng. Khi trời đ~ về đêm, chúng tôi quyết định nghỉ l}u hơn, rồi lại đi tiếp. Chúng tôi đi rất chậm và mệt mỏi. V ết thương trên vai tôi nhức nhối d ữ d ội, đôi lúc làm tôi mê man, bất t ỉnh, lúc t ỉnh thì thấy cằm đang tì v{o chiế c tay áo khoác khô cứng của Côlia… Cậu ta đ~ bế tôi đi? Hay l{ lúc tôi lảo đảo sắp ng~, thì Côlia đ~ kị p ôm choàng lấy tôi. Tình tr ạng s ức khỏe c ủa trung úy cũng không kh| hơn tôi. Trong một lần nghỉ lấy sức, Côlia nhìn th ấy một b|c nông d}n gi{ đi ngo{i bìa rừ ng, trong tay có một bọc nhỏ. Ông l{ người l{ng bên, ra đồ ng tuốt ít lúa m ạch đem về c ứu đói cho gia đình. Tấ t cả lương thực, thực phẩm của gia đình đ~ bị qu}n Đức cướp sạch.
Thu hoạch v ụ mùa ngo{i đồng, không được phép: c|nh đồ ng lúa thuộc quyền “nước
Đức Đại đế”.
Thật xót xa khi ph ải nhai t ừng h ạt lúa m{ người nông dân bốc cho m ỗi người m ột nhúm vào lòng bàn tay.
Sau đó người nông dân t ốt b ụng ấy d ẫn chúng tôi đi trên con đường r ừng nhỏ, c ỏ mọc um tùm vì l}u không có ngườ i qua lại, tìm đến nhà một người th ầy thuốc ở cách đó cỡ 15 kilômét. Chúng tôi đi m~i, khi rừng bắt đầu thưa dần thì người dẫn đường dừng lại bảo: “B}y giờ trời đ~ s|ng, c|c anh không đượ c mạo hiểm. Từ đ}y đến con đường dẫn vào làng chỉ còn 300 mét. Đợi đêm xuố ng lúc ấy mớ ra đường c|i đi về phía nam”. Chỉ c|ch tìm nh{ người thầy thuốc xong, bác nông dân chào chúng tôi và quay tr ở lại. Lại m ột ngày chờ đợt căng thẳng, mệt m ỏi, c ảm th ấy như l{ mặt trời đứng nguyên một chỗ, không chịu lặn xuống sau canh rừng xa. Trong lòng chúng tôi lo l ắng, chẳng được yên, muốn ngủ mà không thể ngủ nổi…
Khi bóng đêm trùm xuống, chúng tôi đi ra đường, thận trọng nghe ngóng t ừng tiếng động, lần theo con đườ ng rừng ngoằn nghèo dẫn v{o l{ng tìm người giúp đỡ . Chúng tôi đi suốt đêm, rạ ng sáng vẫn chưa v{o trong l{ng được. Lại phải chờ đến t ối. Nhận ra nh{ người thầy thuốc, chúng tôi tìm cách ti ếp cận, ẩn núp và tiến hành quan sát, thay nhau ngh ỉ ngơi. Đến chiều chúng tôi mới phát hiện ra, trong làng không có qu}n địch, m{ d}n cư thì hầu như đ~ bỏ đi hết: vườn tược hoang vắng, mọi nơi yên tĩnh, không ngườ i qua lại. Chúng tôi quy ết định c ử Côlia luồn qua vườn vào nh{ người thầy thuốc để trinh sát. Hai anh em ở ngoài nạp đạn cho hai kh ẩu súng lục, đề phòng nếu gặp nguy hiểm thì yểm hộ cho Côlia rút ra. Côlia chạy an to{n đến ngôi nh{ ngườ i thầy thuốc và vào khuất trong đó. Bắt đầu những phút chờ đợi hồi hộp, lo âu, không bi ết liệu Côlia có ra đượ c không? Cuối cùng thì cũng nghe thấ y tiếng huýt gió ngắn ám hiệu quy ước của chúng tôi vọng t ới t ừ phía bên. Chúng tôi đ|p lại tín hiệu trả lời. Hai ba phút sau, Côlia xu ất hiện, mang theo một b ọc thức ăn. Chúng tôi mở gói thức ăn, còn Côlia thì k ể lại m ọi chuyện xảy ra trước mắt: “C|c anh ơi, thế mới gọi l{ con người. Thật sự là một con người! Một con ngươi Nga ch}n chính!” Gói thức ăn được mở ra, chúng tôi th ật ng ạc nhiên vô cùng. Trên m ặt t ờ b|o đ~ ố v{ng, như l{ khăn trả i bàn, là nửa ổ b|nh mình nướng lấy, ba củ khoai tây luộc, hai quả táo và m ột gói muối nh ỏ! Vì Côlia đ~ được ch ủ nhà mời ăn trong nh{ rồi, nên số mang ra l{ d{nh cho hai chúng tôi. Khi chúng tôi ăn thì Côlia kể cho chúng tôi nghe
về người thầy thuốc. Ông tên là Nhicôl ai Ivanôvích, có ba người con đang chiến đấ u ngoài mặt trận. Bọn Đức đ~ mấy lần đến nhà và gọi ông sang ban quân qu ản làng bên trình diện, nên ông khuyên chúng tôi hãy th ận trọng. Kôlia đ~ nói rõ để Nhicôlai Ivanôvích hiểu rằng, nếu không được sự giúp đỡ của thầy thuốc thì không thể đi nổi.
Đến chiều t ối thì chúng tôi đến nh{ Nhicôlai Ivanôvích. Ông đ~ chờ s ẵn chúng tôi, t ừ t ứ kéo rèm che kín h ết các cửa sổ, chuẩn bị sẵn sàng dụng cụ y t ế, bông, băng… Với tình cảm yêu thương, trìu mến như ngườ i cha, ông l ẩm bẩm xót xa lau r ửa vết thương, băng bó cẩn thận cho chúng tôi. Làm xong ông nói nh ẹ nh{ng, nhưng kiên quyết: “C|c ch|u không được đi ngay b}y giờ! Vết thương không g}y chết ngườ i, nhưng rất nguy hiểm và nên tuân thủ chế độ bất động, ít nhất là hai ba ngày … B|c sẽ giấu các cháu trong kho c ỏ khô. B|c không để c|c ch|u đi trong tình rạng như thế n{y!” V{ không đợi câu trả l ời c ủa chúng tôi, ông nói li ền: “Cứ th ế các cháu nhé. M ời các cháu vào phòng b ệnh!” – Nói rồi ông dẫn chúng tôi vào kho c ỏ khô. Tôi như ngất ng}y đắm chìm trong hương cỏ khô thân thu ộc, trìu mến. Nhicôlai Ivanôvích chúc chúng tôi ng ủ ngon, v{ như l{ thấy mình có lỗi không để chúng tôi ngủ trong nhà, ông nói thêm: Mùa hè các chàng trai nhà bác thích ng ủ trong kho cỏ khô lắm”. Tôi nằm đ}y, trong mùi hương cỏ khô bỗng sống lại tuổi thơ xa vắng đ~ lùi xa tự bao giờ. Nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, người thân, gieo vào lòng tôi m ột câu hỏi buồn: rồi điều gì sẽ xảy ra với tôi? Liệu tôi có sống sót trong cuộc chiến tranh khủng khiếp này không? Mẹ ơi, mẹ có sao không? Các con trai c ủa mẹ đêu đi chiến đấu, còn lại mẹ một mình. Những ng{y th|ng khó khăn gian khổ này, chắc các chị gia đình ở gần đấy chẳng thể nào lại để mẹ ở một mình… Tôi đem theo những ý nghĩ buồn, thương ấ y chìm vào giấc ngủ… Sáng sớm c ả làng vẫn còn ngủ, ông y sĩ đ~ đ|nh thứ c chúng tôi dậy. Ông mang vào kho thức ăn cả ng{y, hai xô nướ c ấm và cả một chồng s|ch b|o cũ m{ phần lớn là sách báo ngành y. Ông khám l ại vết thương của chúng tôi v{ băng bó lại. Khi đi ra ông dặn, để tránh nghi ngờ, ban ngày ông sẽ không v{o kho, đến đêm ông sẽ khám lại kỹ hơn.
“S|ch đấy, h~y đọc đi nhé! – Ông khuyên – Nó sẽ cần cho c|c ch|u đấy”. Khi ấy, chúng tôi thật vô ý, không hỏi họ ông, người đ~ cứu giúp chúng tôi là gì? Và cũng không biết các con ông chi ến đấu ở đơn vị nào? Những sự ki ện ấy không chỉ để sau này kể lại mãi mãi, mà còn ghi nh ớ đời đời!
Ban ng{y chúng tôi đọc sách báo, làm quen v ới các vấn đề y h ọc, lo lắng bàn luận diễn biến tình hình xảy ra cùng nhau tìm cách thoát vòng vây, tr ở về đơn vị. Ban đêm
Nhcôlai Ivanôvích k ể cho chúng tôi nghe v ề tình hình trong làng và tình hình chi ến sự của quân ta. Hồi ấy những tin t ức quân sự thật đ|ng buồn. Chúng tôi ở lại hai ngày trong kho c ỏ khô. Đêm thứ ba thì Nhicôlai Ivanôvích cho chúng tôi đi. Ông gói cho chúng tôi thức ăn cho hai ng{y đường, dự trữ bông băng, cồn iốt, rồi dẫn chúng tôi đi qua vườn ra đườ ng làng, chỉ cho chúng tôi hướng đi đế n mặt trận gần nhất. Chúng tôi ôm ông, cảm ơn tấm lòng đôn hậ u và sự giúp đỡ của ông, rồi chia tay. Chúng tôi đi xuyên rừng, hoặc qua những vùng hẻo lánh không có đường, không có người qua lại, mỗi lúc một khó khăn vất vả hơn. Cũng như trướ c, chúng tôi đêm đi, ng{y nghỉ, cố gắng ăn dè xẻn, tiết kiệm thực phẩm. Nhưng cũng chỉ đủ ăn được ba ng{y. C|i đói buộc chúng tôi phải tìm đến quả dại, lá rừng, nấm tươi… C|i đói l{ vậy, còn cái khát hành h ạ cũng không kém. Trong rừng chỉ tìm được những vũng nước tù nhỏ, mà uống vào lập t ức bị đau bụng dữ dội. Tình thế lại càng trở nên phức t ạp khi chúng tôi phát hi ện ra suốt th ời gian chúng
tôi đi trên đường, xung quanh đêu yên tĩnh vắng lăng. Hình như chúng tôi đi ng{y càng xa mặt tr ận ch ứ không phải ra m ặt tr ận… Điều đó lại càng làm cho chúng tôi lo lắng, ủ d ột. Chúng tôi không tìm c|ch x|c định phương hướ ng chính xác, mà ch ỉ giữ hướng đi về phía đông. Đôi lúc tôi lại ngất xỉu, và tình l ại khi c ằm đụng phải vai cứng như gỗ của Côlia. M~i đến ngày thứ bẩy chúng tôi mới tìm đến được khu vực của quân ta ở gần thành phố Trupthepsk. Chúng tôi ki ệt sức vì đói v{ mệ t lả, bông băng c|c vết thương rách nát, b ẩn th ỉu, nhưng mặt mày thì h ả hê sung sướng khi được l{m “tù binh” củ a quân ta. Sau khi h ỏi han, tìm hi ểu không lâu, th ủ trưởng đơn vị cho tôi và trung úy, hai người bị thương về bệnh viện, còn Côlia được bổ sung v{o đơn vị l|i xe… Th|ng 6 năm 1996 tôi nhận được phong thư của đại sứ Nga t ại Thụy Sĩ Anđrêi Xtêpanốp. Tôi đ~ sang thăm Thụy Sĩ trước đó một th|ng, v{ lúc đó vẫ n còn giữ nguyên những ấn tượng về t ất cả những gì đ~ thấy ở đó. Nhưng ấn tượng mạnh nhất không phải là ở đó người ta dùng sampun g ội đầu để làm mọi việc, t ừ việc rửa con đường nối hai thành ph ố sạch tinh với nhau đến việc t ắm cho bò trên bãi c ỏ… C|i làm tôi cảm động là ở chỗ kh|c: người dân Th ụy Sĩ đ~ tôn vinh ch}n th{nh v{ s}u sắ c nhà chỉ huy quân sự của chúng ta: Alêcxanđr Vaxilievích Xuvôrôp. Người dân ở đ}y gìn giữ m ột cách cảm động nhưng kỷ ni ệm v ề vị tướng và những người lính Nga hai trăm năm trước đ~ vượt qua d~y núi Anpơ hiể m trở, đ|nh thắng qu}n thù đem lạ i vinh quang s|ng chói đời đờ i. Một sự kiện đ~ xảy ra t ừ ngần ấy năm! Ở Thụy Sĩ về đến Ijieps, tôi đến thư việ n thành phố. Trên dường đi tôi tự trách mình: Bởi đ}u nên nỗi hình thượng ngườ i hùng thân yêu c ủa tôi thu ở thanh niên sôi nổi, một hình tượng yêu quý c ủa mọi người dân Nga trong những năm chiến tranh khốc liệt với qu}n Đức, nay hầu như đ~ lặn chìm, lặng lẽ vào phần đời còn lại của đời
tôi. Nếu còn nhớ l ại, thì cũng chỉ tho ảng qua, m{ đôi khi nhờ vào bánh xe qu ảng cáo nhố nhăng n{o đó khơi gợ i. Thế mà, ở đất nước xa lạ kia, người ta lại trân trọng, nhiệt tâm hồi tưởng lại hình tượng người lính Nga đế n thế. Lúc này tôi h ỏi mượn cả cuốn “Khoa học chiến thắng” v{ cả “Những bức thư” của Xuvôrốp – tóm lại là t ất cả những gì về người ta tôn vinh người lính, vi ết về người lính. Về nhà, tôi lật t ừng trang cuốn sách mỏng “Khoa h ọc chiến th ắng” v{ tự h ỏi mình: Này nhà thiết kế, mi có x ấu hổ không?
“Mỗi người chiến sỹ phải hiểu được h{nh động của mình. L{ người lính thì ph ải khỏe mạnh, dũng cảm, kiên quyết, trung thực”. Đ}y cũng chính l{ những lời giáo hu ấn mà tôi vẫn ấp ủ. Tôi cắt chiếc bì thư dầy cộp, và rút ra b ức thư riêng của đại sứ Xtêpanốp, một cuốn t ạp chí của Thụy Sĩ, những bài báo c ắt rời, kèm theo các b ản dịch sang tiếng Nga… Có lẽ phải trực tiếp gặp ông đại sứ để bầy t ỏ sự kính trọng và cảm ơn ông, một con người lịch sự, tinh t ế và rất đ|ng tin cậy. Trên một bài báo có cái tít l ớn đập ngay vào mắt: “Ông gi{ v{ khẩu tiểu liên”. Ông già là tôi, còn kh ẩu tiểu liên, đương nhiên l{ khẩu AK. “Ông Mikhain Timmôphêêvích Kalasnhic ốp 77 tuổi, người phát minh ra kh ẩu tiểu liên cùng tên, trong khuôn khổ chuyến thăm năm ng{y tại Thụy Sĩ, hôm thứ s|u đ~ đến Anđerơm|t, thủ phủ của Uri. Tại đ}y ông đ~ thăm trường bắn trung tâm, viện bảo t{ng v{ tượng đ{i kỷ niệm các chiến sĩ “Xuvôrốp”. Tiếp đến là bài báo thứ hai: “Mikhain Kalasnhicốp; người Nga nổi tiếng ở
Anderơm|t”.
“V{o thứ bảy – chủ nhật vừa qua, qu}n đo{n chủ l ực số Năm qu}n đội Th ụy Sĩ v{ trường bắn b ộ binh sơn cước trung tâm ở Anđerơm|t đ~ tiếp m ột v ị kh|ch đặc biệt. Đó l{ thiếu tướng Nga về hưu Mikhain Kalasnhicốp. Đại tá Phrax Gơnôx đại diện trường bắn v{ đại úy Măc Bauman đạ i diện quân đo{n Năm đ~ nhiệt liệt hoan nghênh vị khách quý và những người cùng đi trên mả nh đất Nga bên tượng đ{i kỷ niệm các chiến sỹ Xuvôrốp ở Sôllennen. Tên tu ổi “Kalasnhicốp” nổi tiếng trên toàn thế giới. Mikhain sinh năm 1919, v{o những năm của th ập kỷ 40 đ~ s|ng chế ra loại vũ khí đ~ đi v{o lị ch s ử quân sự dưới c|i tên “tiểu liên Kalasnhic ốp, c ỡ 7,62mm, kiểu 1947. (AK)”. Nh{ thiết kế người Nga do có nhi ều công lao đ~ được t ặng thưởng nhiêu hu}n chương của Liên Xô.
Trong chương trình đi thăm của vị khách Nga có c ả phần trưng b{y vũ khí bộ binh ở khu trại Altkirơk. Stêphan Egenviler sĩ quan tùy tùng qu}n đo{n Năm cho biế t, trong cuộc trưng b{y sẽ có những vật mẫu quý hiểm, thậm chí có c ả mẫu đặc biệt hiếm t ừ năm 1817. Mikhain Kalasnhic ốp đ~ ho{n th{nh chuyến thăm của mình ở Uzertal, ở đ}y ông đ~ thăm những nơi kỷ niệm về Xuvôrốp, sau đó ông trở về đèo Xanh-Gôtar”.
Và, bỗng nhiên trong tôi xuất hiện cái cảm giác sắc bén của lưỡi dao mới mài, cái cảm giác về ý thức t ội lỗi. Nhưng không phải lỗi trước vị đại nguyên so|i, không…
“Th}n mình dù l}m nạn, nhưng đồng độ i vẫn còn”. Ông già Kalasnhic ốp ơi, liệu ông có thể đến được Xanh-Gôtar với khẩu tiểu liên nổi tiếng c ủa mình không, n ếu như năm 41 không có ngườ i nông d}n gi{ đ~ bốc cho vào tay anh nắm lúa mạch đen… Nếu như không có người y sĩ l{ng băng bó vết thương cho anh và giấu anh trong “phòng bệnh” chứa c ỏ khô của mình?… Nếu không có chú Côlia trẻ, người lái xe không biết mệt, b ị địch bắn n|t xe, mình đẫ m mồ hôi, chạy v ề báo với anh: “Ôi, thế mới l{ người!… Một Người Nga ch}n chính!” Biết bao nhiêu người đ~ hy sinh th}n mình, để cho đồng đội được còn như vậ y?
Nhưng sau n{y người ta sẽ kể gì về chúng tôi? “Người lính vẫn còn sống…” Ở quân y viện Elexk, sau khi k h|m cho tôi, người b|c sĩ gi{ lẩ m bẩm: - Sao cậu l ại để v ết thương thế này? – R ồi, ngay sau đó ông đổ i gi ọng – B ị bao vây à? - Vâng, gần như thế. - Đ{nh phải giữ cậu lại một thời gian ở đ}y. Nằm trong phòng bệnh ngày lại ngày tôi b ồn chồn lo lắng về những gì đ~ xảy ra với tôi. Trong đầu tôi chất ch ồng những ý nghĩ: khẩu ti ểu liên t ự động c ủa ta ở đ}u? Thứ vũ khi lợi hại bắn nhanh, nhẹ và ít hỏng hóc ấy. Trong phòng b ệnh có đủ các binh chủng: tăng, bộ binh, ph|o binh v{ công binh. Đôi khi nổ ra các cu ộc tranh luận về nh ững ưu điểm, thiếu sót, mặt m ạnh, mặt y ếu c ủa vũ khí n{o đó. Tôi không tham gia nhiều vào các cu ộc tranh luận ấy, nhưng trong đầu vẫn giữ lại một số ấn tượng nhất định. Tôi r ất thích thú l ắng nghe những người đ~ trực tiếp sử dụng tiểu liên trong t ấn công, trong cản ph| c|c đợt xung phong ác liệt của kẻ thù về phía chiến hào của ta. Chính h ọ l{ người biết rõ nhất sự ho ạt động, tác dụng c ủa loại vũ khí cơ độ ng n{y như thế n{o trong đ|nh gần. Sau những cuộc tranh luận ấy, trong quyển sổ riêng của tôi xuất hiện những bản vẽ phác thảo mới. Tôi tìm đế n sách vở, tài liệu, tôi suy nghĩ về mối liên quan l ẫn nhau giữa các bộ phận của khẩu tiểu liên t ự động Tôi lập riêng cho mình m ột b ảng t ổng hợp các mẫu vũ khí tự động khác nhau, l ịch s ử ra đời, quá trình chế t ạo chúng v{ so s|nh tính năng kỹ – chiến thuật của chúng.
Tình hình chiến s ự ngoài mặt tr ận càng xấu đi, thì c|c cuộc tranh luận lại càng sôi
nổi hơn.
- Súng tiểu liên loại t ốt, đó l{ thứ vũ khí cần thiết c ủa b ộ binh – Anh lính trinh sát nằm giường bên mở đầu cuộc tranh luận với giọng đau buồn cố hữu. – Mỗi người một khẩu! Chỉ có thế mới mạnh được. - Ừ, cái khẩu tiểu liên của c ậu thì mạnh thật. Nhưng ta h~y lấy c ự ly ngắm bắn để xét. Không thể so sánh với súng trường được, chẳng hạn súng trường kiểu MOXIN có cự ly bắn 2000m còn kiểu Tocareps t ự động thì cự ly bắn là 1500m. Th ế còn tiểu liên ППД? Được 500m là cùng. – Anh lính công binh n ằm cạnh cửa sổ nổi nóng. Về chuyện này sau tôi sẽ k ể ti ếp. Chủ y ếu m~i đến nh ững năm sau chiế n tranh, số phận mới run rủi cho tôi được gặp các nhà thi ết kế F.V.Tôcarép, V.A.Điôchiarép v{ G.X.Spagin. Còn bây gi ờ thì, với cây bút chì và t ờ giấy trong tay, lúc thì ở trong phòng bệnh, lúc thì ở ngoài hành lang quân y viện, tôi cùng với một trung úy lính dù th ảo luận với nhau v ề các bộ ph ận c ủa các loại vũ khí tự động do c|c nh{ vũ khí chúng ta chế t ạo. Chúng tôi nh ận thức được t{i năng s|ng tạo v{ tư duy vũ khí củ a họ và mong muốn được thử sức tìm tòi con đường riêng của mình để ch ế t ạo th ử một mẫu trung liên mới. Những kinh nghiệm thu được t ừ sách vở tài liệu, t ừ các cuộc trao đổi với người trung úy rõ r{ng l{ chưa đầy đủ , ch ỉ có tính chất bổ sung thêm kiến th ức. Tôi rất mu ốn được ki ểm tra trên thực t ế những ý định thiết k ế của mình bằng cách thực hiện chúng trên kim loại. Vết thương của tôi lành m ột cách chậm chạp. Tay cử động còn khó. C|c b|c sĩ đ~ cố gắng chạy ch ữa hết sức và rồi họ quyết định cho tôi ra vi ện, cho phép ngh ỉ dưỡng thương v{i th|ng để chữa tiếp. Thú thật là quyết định ấy bất ngờ v{ đ|ng tiếc với tôi, nó không phù hợp với thời chiến.
Nhưng c|c b|c sĩ thì vẫn một mực quyết định: Cần phải chữa vết thương ở vai một c|ch l}u d{i để ph ục h ồi kh ả năng l{m việc c ủa cánh tay. Nh ận được gi ấy nghỉ phép, tôi thu vén s ố đồ dùng ít ỏi của người lính, gói ghém c ẩn thận cuốn sổ tay cùng với các ghi chép về vũ khí, c|c bản vẽ và các công thức vào một t ờ báo. Tôi v ề nghĩ dưỡng thương ở làng quê nhỏ bé của tôi thuộc vùng Altai. Anh trung úy dù, ch ống nạng đưa tiễn tôi đế n cuối hành lang. - Đừng buồn nhé, Misa, rồi cậu còn có dịp trở lại mặt trận chiến đấu – Anh nháy mắt thân thiện – Và nhất định mang theo khẩu ti ểu liên chứ? Cố gắng đạt kết quả t ốt nhé. Và cho g ửi lời hỏi thăm b{ con xóm giề ng. Nhớ chuyển lời hỏi thăm nhé!
Tôi đ~ không chuyển lời hỏi thăm được! Vì tôi không đến Curia. Ngồi trong toa tàu ngột ngạt, chật ních, tôi ngó ra c ửa sổ đầy bụi bẩn. Ngoài kia là phong c ảnh mùa đông
u ám, trong lòng tôi ch ỉ quẩn quanh một ý nghĩ về cấu t ạo của khẩu súng tương lai. Đ~ rất chật rồi, bỗng nhiên lại thấy mọi người xung quanh dồn lại, không còn c ựa quậy được, giống như hồi còn trẻ vẫn gọi đùa l{ “ép mỡ”… Tôi muốn đứ ng dậy, vì bên vai bị thương đau dữ dội; và tôi b ỗng hiểu t ại sao mọi ngươi dồn ép nhau: lấy chỗ đứng cho người kéo đ{n mù. Có l ẽ anh cũng ở quân y viện ra: anh mặc một bộ qu}n |o lính, đôi kính đen b|m trên khuôn mặt khô gầy. Ngồi yên vị xong trong góc ghế, anh kéo đ{n dạ o, rồi với giọng khàn khàn, chất chứa buồn đau, anh giật giọng hát:
Kìa qu}n Đức tr{n đến t ận Xmôlen!… Bốn mặt xe tăng, bốn mặt quân thù
Còn người lính Nga, v ới đôi khẩu súng trườ ng Từ chiến hào xốc t ới. Tiếng đ{n chùng xuống rồi t ắt lịm, nhưng người hát thì cứ lặp đi lặp lại mãi một điệp khúc, càng lúc càng di ễn cảm hơn, buồn hơn v{ vô vọng hơn: Vớ i khẩu súng trường!… Chỉ với khẩu súng trường! Xốc t ới… Xốc t ới… Xốc t ới!…
Dưới cặp kính đen, hai dòng nướ c mắt chảy tràn, còn trong giọng hát chứa một nỗi hoán hận không cùng! Tiếng đ{n lặng đi, còn tiế ng anh lại gầm lên trong nghẹn ngào: Với-khẩu-súngtrường… Xốc t ới… Xốc t ới.. Xốc t ới…
Đến lúc này, tiếng đ{n lại c ất lên, ban đần còn khe khẽ nức nở, nhưng sau đó bỗ ng vút lên dữ dội chưa từng thấy và giọng hát của người lính mù cũng hòa quyệ n vào dòng }m thanh căm giận đó. A ha ha… Trúng rồi, Lũ khốn… Xung quanh tôi ti ếng thở dài, tiếng trò chuyện lao xao trở l ại, còn tôi c ứ nhìn mãi ra cửa sổ mà trong lòng, m ắt nhìn không thấy, nhưng tai thì đang lắng nghe dòng âm thanh n{o đó thật quen thuộc văng vẳng đ}u đ}y, phải rồi đó l{ tiếng va đậ p của bánh xe sắt lặp đi lặp lại như nhắc nhở tôi; “Matai!… Matai!…”
Đềpô xe hỏa ở Kazăcxtan… Ở đó tôi đ~ được học nhiều điều sau n{y đ~ rấ t có ích trong qu}n đội. Ở đó, có c|c bạn cũ của tôi, những người th ợ tài ba, khéo léo! Ch ỉ có họ mới hiểu v{ giúp thôi ho{n th{nh đượ c nhiệm vụ nặng nề trước mắt.
“Matai!… matai!… Matai!…” b|nh xe gõ nhịp. Thế l{ tôi đ~ có mặt ở đềpô xe lửa Matai v{ đang đứng trước ngườ i phụ trách. Lúc thì ông đọc giấy t ờ của tôi, lúc thì ông nhìn vào cánh tay qu ấn băng. Rõ thật may mắn, tôi và ông lại cùng họ với nhau: Kalasnhic ốp, điều đó cũng cho tôi thêm sức mạnh, v{ hơn thế nữa: bỗng dưng tôi cảm thấy trong giọng nói của ông có cái âm hưởng đặc biệt n{o đó…
Ấy l{ ng{y nay chúng ta đ~ l{m mất hết một cách nhục nhã và hèn kém cái tình cảm gần gũi thiêng liêng đo{n kế t, thống nhất mọi người trong những năm chiến tranh khốc liệt, đ~ giúp ta l{m nên chiế n thắng… Lúc bấy giờ cái tình cảm th ống nhất ấy là một t ấm lá chắn không thể xuyên thủng được. Không cần biết anh là ai: là người Nga, người Tacta, người Utmur hay l{ người Iacút… Trên chiến trườ ng, máu chúng ta cùng đổ, hòa trong tình c ảm thống nhất vĩ đại của mọi người cùng sống trên lãnh thổ mênh mông của nước Nga. Tôi còn nh ớ, tôi đ~ trình b{y một cách rất phấn chấn v{ đầy tin tưởng với ông xưởng trưởng về ý định táo bạo của mình là chế t ạo loại vũ khí tương lai. Tôi l ật giở t ừng trang sổ ghi chép và các b ản vẽ giải thích cho ông… tôi nói với ông rằng, tôi đ~ kịp trao đổ i v ới nhiều anh em “nh{”, v{ mọi ngườ i đều hứa giúp đỡ tôi. Đương nhiên l{ giúp vô tư, không phả i trả tiền. Tất cả vì sự nghiệp chung, vì ngày h ội chung của mọi miền. Tôi cảm thấy ý tưởng của mình đ~ dần dần được ông chú ý, và s ự kiên trì thuy ết phục của tôi đ~ không để cho ông có thời gian t ừ chối. Cuối cùng, ông thở d{i như trút được gánh nặng, và nói với vẻ như người đ~ quyết định rồi: - Tôi biết l ấy người đ}u cho đồng chí? Nhiều anh em ph ải ngủ l ại ngay trong phân xưởng, trên các bàn thợ, trên c|c đ}u m|y, để tranh thủ thời gian, khỏi phải đi về, mà cậu thì lại chỉ l{m được có một tay. Chỉ có một cách thế này: Giúp cậu về công việc làm, còn công nhân thì không c ắt h ẳn được, v ẫn ph ải làm việc chính của h ọ. Th ế còn những việc gì, ai làm thì ph ải trao đổi c ụ thể v ới t ừng người. C ậu t ự trao đổi hay tôi đi hỏi? Việc này tôi có th ể thu xếp được, trước chiến tranh tôi đ~ quen biế t t ất c ả các thợ cả. Còn về phía xưởng trưởng thì đ}y l{ mộ t chiến công: đang lúc khó khăn khắ c nghiệt như thế mà ông dám cho phép chế t ạo loại vũ khí “mật” trong c|c ph}n xương của mình. Tôi thật vô cùng biết ơn ông!… Có thể chính ông l{ người đỡ đầu đầu tiên của tôi, trước khi khẩu AK ra đời một thời gian l}u… V{ tên khẩu súng “Kalasnhicốp” mà giờ đ}y khắp nơi nhắc đến không chỉ l{ tên tôi m{ còn l{ tên “người đỡ đầu” của nó… Trong khi đó có biế t bao cái tên khác, tên c ủa người Nga và tên của những người dân t ộc khác vẫn cùng t ồn t ại bên nhau!
Nhưng lúc ấy chúng tôi đ}u có nghĩ tới vinh quang.
Tôi và ông Kalasnhic ốp – xưởng trưởng quyết định thành lập nhóm chế t ạo thử gồm: thợ nguội lắp ráp, thợ tiện – phay, thợ h{n điện, và m ột người thí nghiệm. tôi cho rằng ngần ấy người l{ đủ để ch ế t ạo m ẫu. Các công vi ệc liên quan đến tính toán kỹ thuật tôi chịu trách nhiệm. Lúc ây tôi th ật qu| ng}y thơ, không hiểu được rằng các công việc m{ người thiết kế gọi là hoàn thi ện bản vẽ ấy, phức t ạp và rắc rối biết chừng nào. Sau cu ộc nói chuyện với xưởng trưởng đềpô tôi đến gặp ngay chỉ huy trưởng ủy ban quân sự khu v{ trình b{y ý đị nh của mình. Lúc ấy tôi thật khó tin là ông lại tán thành!
C|c công nh}n đềpô s ốt sắng hưởng ứng việc giúp đỡ anh lính chế t ạo vũ khí mới. Nhiều anh em công nhân s ẵn sàng làm cả đêm. Tôi thật sung sướng khi đượ c biết trong số anh em công nh}n có người quen cũ từ lâu của tôi. Anh tên là Giênhia Craptrencô, trước chiến tranh tôi với anh đ~ cùng l{m với nhau ở đềpô. Mặc dù tôi với anh ấy không thân thiết v ới nhau, nhưng tôi v ẫn còn nhớ, anh vốn là một người t ốt bụng, t ận tâm. Anh có thể sản xuất được các chi ti ết đòi hỏi óc sáng t ạo cao trên máy tiện và máy phay. Sau khi tôi chuy ển công tác sang phòng chính tr ị ở đoạn đường sắt, tôi và anh vẫn thường xuyên gặp nhau. Trong quá trình làm vi ệc nảy sinh ra những khó khăn: soạn thảo bản vẽ thi công cho các chi ti ết, cụm chi tiết và toàn bộ mẫu nói chung. Chúng tôi đề nghị phòng kỹ thuật giúp đỡ. Thế nhưng ở đó chỉ có phụ nữ làm việc, họ không có một chút khái niệm gì về c ấu t ạo vũ khí, mặc dù vậy h ọ v ẫn r ất mong muốn làm hết s ức mình giúp chúng tôi có bản vẽ. Phụ nữ vẫn cứ là phụ nữ! Những chi tiết họ vẽ ra được đặt tên theo những hình dáng rất dịu dàng và gần gũi “con én”, “con thỏ”, “con c|”. Có một chi tiết máy mới mà mọi người gọi la “mu-gic” (tức l{ người đ{n ông). Nghe lạ tai, tôi hỏi: Tên gì mà kỳ thế? Chị nhóm trưởng nheo nheo mắt, khẽ lắc đầu rồi nói nh ỏ: - Các ông chồng chúng tôi ra m ặt trận c ả. Hai người đ~ hy sinh. Còn những ngườ i kh|c thì đêm ng{y mong đợi. Họ nhớ đấy… Cậu thông cảm cho chị em… Trong lần lắp thử đầu tiên, đ~ ph|t hiệ n ra nhiều chi tiết không chính xác v ề kích thước và thậm chí sai l ạc xa so với ý định. Việc cần chỉnh lại nhiều khi đòi hỏi sự khéo léo đặc biệt. Một trong những người có bàn tay vàng mà tôi không th ể quên được, đó l{ người th ợ h{n điện Macarenkô. Anh n ổi ti ếng v ề t{i h{n đắp, anh đ~ hồi phục được biết bao chi ti ết đ~ bị loại. Các mối hàn của anh chính x|c, đẹp cứ như l{m đồ kim hoàn. Th ật là một người thợ t{i năng.
Dần d}n hình th{nh được các cụm chi tiết và các bộ phận được l ắp ráp. Th ật khó mà nói hết được những khó khăn trở ngại không lường trước được, m{ chúng tôi đ~ vấp ph ải khi làm vi ệc. Khóa nòng khi b ắn th ử luôn luôn ho ạt động không đúng vị trí. Buộc phải sửa lại bản vẽ hộp khóa nòng mấy lần. Hóa ra hành trình c ủa khóa nòng hơi ngắn phải làm lại. Một lần anh thợ h{n điện hỏi tôi: - Có phải người chế t ạo ra kh ẩu trung liên Macxim đ~ mất năm năm ròng để gọt, rũa sản phẩm của mình? - Ông ấy không gọt, rũa khẩu súng, mà gọt, rũa c|c chi tiết c ủa nó. Bởi vì máy móc như của chúng ta đ}y, ông không có, còn h{n thì chỉ d|m mơ ước. – Tôi nói – Hơn nữa ngày nay ch ẳng ai cho ta th ời gian những năm năm để chế t ạo một khẩu trung liên nhẹ. Các chiến sĩ cần ngay bây giờ… Giênhia hích nh ẹ vào bên vai kh ỏe của tôi: - Mà anh em công nhân c ủa chúng ta m ới tuyệt với làm sao! Quả thật l{ như thế. Cả những người công nhân quen bi ết và không quen bi ết, những người tr ẻ hơn v{ những người t ừ l}u đ~ đ|ng tuổi b ố, c ặp m ắt trũng s}u như cụ già: mọi người sau hai ca làm vi ệc đều đến hỏi tôi: Này, công vi ệc thế nào, t ốt cả chứ? Có cần giúp gì không? Cần gì cứ nói nhé! Sau ba tháng làm vi ệc căng thảng, có thể nói là quá s ức, chúng tôi đ~ cho ra đời khẩu trung liên nh ẹ th ử nghiệm đầu tiên. Khẩu súng được làm trong m ột c ăn phòng làm việc nhỏ của đềpô xe hỏa. Chúng tôi để nó trên chi ếc bàn nguội, đen dầu mỡ. Còn phải làm gì tiếp v ới kh ẩu súng, đó lại là một vấn đề m ới mà chúng tôi hoàn toàn tin rằng, đ~ l{m được một việc rất quan trọng và rất cần thiết, góp ph ần nhỏ bé vào công cuộc đ|nh thắng qu}n Đức x}m lược. Mỗi chúng tôi nâng kh ẩu trung liên nhẹ, số Một trong tay m{ lòng rưng rưng xúc động. Với tình cảm th}n thương của ngườ i cha, chúng tôi ngắm nghía, vu ốt ve mầu đen bóng |nh thép củ a nó rồi trịnh trọng chuyển sang người khác. Chúng tôi r ất đỗi t ự hào về công việc của mình.
Hôm trước đó tôi đ~ nhận được v{i trăm viên đạ n ở ủy ban quân sự khu. Chúng tôi để một thúng cát lớn, ngay trong phòng lắp ráp và bắn thử, chỉnh súng. Chao ôi! Tiếng súng nổ đ~ kéo mọi người b ỏ công việc đổ xô đến ch ỗ chúng tôi. Vì th ế chúng tôi phải l ắp h ệ th ống đèn v{ chuông b|o đặc bi ệt để t ổ ch ức b ắn đem. Số đạn còn lại sau khi bắn chỉnh, chúng tôi dùng để bắn kiểm tra độ chụm, bắn phát một và bắn liên thanh. Chúng tôi c ảm thấy kết quả thu được không t ồi. Sau một thời gian cân nhắc, l~nh đạo đ~ cho phép tôi, trung sĩ Kalasnhicố p – mang khẩu súng mẫu đến ủy ban quân sự t ỉnh Alma-Ata để b|o c|o…
Trên sân ga, h ầu như tất cả những ai đ~ tham gia chế t ạo khẩu súng đều ra tiễn. Có lẽ ai cũng hồi hộp lo lắng không biết chúng tôi đ~ l{m mọi việc chuẩn xác cả chưa, hay còn nhầm lẫn, sai sót ở khâu nào? Tuy th ế, khi nói ra thì ai cũng khẳng định m ột cách chác chắn rằng mẫu của chúng ta là t ốt, không nghi ngờ gì về chất lượng chế t ạo cả. Anh em, bạn bè thi nhau khuyên nh ủ và chúc t ụng tôi lên đường may mắn. Và hầu như tất cả mọi người đều dúi vào vali m ột gói quà nhỏ cho tôi. Tôi xúc động rưng rưng nước mắt, cảm ơn mọi người đ~ giúp dỡ và quan tâm hết sức đối với tôi. Tầu chuyển b|nh. Tôi đứng nguyên bên cửa sổ độ vài ga nh ớ lại và phân tích các sự kiện những tháng vừa qua: chiến tranh, bị thương, bị vây, quân y viện, và cuối cùng một ý tưởng táo bạo, quá sức đ~ ra đời v{ được thực hiện. Khi tôi quay tr ở l ại chỗ ngồi, thì thấy bên cạnh vali có m ột gói to, trong để t ờ giấy: “Đ}y l{ qu{ của cả đội t ặng Mikhain, chúc b ạn kh ỏe m ạnh v{ dũng cảm”, phía dưới dòng chữ là chữ ký của c|c th{nh viên “đội đặ c biệt”. Toa t ầu chật cứng hành khách. Ph ần lớn là quân nhân và h ầu như tất cả đều bị thương: người thì chống nạng, người thì tay |o buông thõng, ngườ i thì ngực đầy huy chương. Cả tôi cũng vậy, lúc ấy tay trái tôi v ẫn còn băng. Những ngườ i ngồi cạnh thấy người đi tiễn tôi đông, liề n gạn hỏi: “Cậu là ai thế? Hu}n chương huy chương không thấy, mà sao nhi ều người đưa tiễn thế? Sao lại vinh dự thế? Ai nói chuy ện gì với cậu mà lâu thế? Người có tuổi hơn cả là bố hay anh cậu?”. - Đ}y l{ đốc công trưởng c ủa đềpô. Ông ấy đối v ới tôi như cha đẻ . Ông ấy tài lắm, chi tiết nào của đầu máy ông ấy cũng có thể chế t ạo được. - Thế cậu cũng làm ở ng{nh đường sắt à? Sao lại đeo phù hiệ u binh chủng tăng? - Vì mình chính l{ lính xe tăng m{! Alma-Ata, thủ đô của Kazăcxtan, nay l{ một nướ c có chủ quyền, chiếm một vị trí đặc biệt trong tr|i tim tôi. Trước khi nhập ngũ v{o qu}n đội, khi còn làm ở phòng chính trị đoạn đường s ắt, tôi vẫn thường xuyên có mặt ở đ}y. Đ}y l{ điểm xu ất phát của con đường đầy gian nan, tr ắc tr ở đưa tôi đến công việc sáng chế vũ khí bộ binh. Trong những năm chiến tranh, nhiều nh{ m|y, cơ quan khoa học, trườ ng học t ừ phân châu Âu c ủa đất nước đ~ sơ t|n về đ}y. Trường đại h ọc h{ng không M|txcơva, một trong số đó, đ~ cộng t|c, giúp tôi được g ặp g ỡ v{ tư vấn với các chuyên gia ch ế t ạo vũ khí. Về điều này tôi s ẽ nói sau.
Thật vất vả tôi mới đến được ủy ban quân sự t ỉnh, gặp trực ban, xin gặp chỉ huy trưởng. Trong phòng tiếp khách có rất đông qu}n nh}n đeo qu}n h{m c|c cấ p của nhiều binh chủng qu}n đội. Ngay cạnh cửa vào phòng làm vi ệc của chỉ huy trưởng ủy ban quân sự có một chiếc bàn lớn, ngôi sau bàn là m ột s ỹ quan tùy tùng trẻ dáng vẻ quan trọng. Tôi báo c|o người sĩ quan theo đúng thể thức: rằng thượng sĩ Kalasnhicốp trong thời gian dưỡng thương đ~ chế t ạo được một mẫu vũ khí mới, có mang theo, đề nghị được báo cáo cho chỉ huy trưởng ủy ban quân sự biết. Các sự kiện diễn ra tiếp theo quá nhanh, đến nỗi tôi chưa kịp hiểu đầu đuôi ra sao cả, thì đ~ thấy mình ở trong một gian phòng nhỏ ngột ngạt khóa trái ở ngoài, mà có th ể l{ phòng giam… Khẩu “trung liên nhẹ số Một”, v{ thậm chí cả chiếc xanhtuya quân sự cũng phải để lại. Mỗi lần có người được “thả ra”, tôi lại nhờ g ọi hộ cho tôi số điện thoại… n{y nhờ nói giúp rằng Misa Kalasnhic ốp mong chờ sự giúp đỡ! Gần trưa ng{y thứ tư thì vẫn chính người sĩ quan đ~ g}y ra cho tôi biế t bao nhiêu phiền toái ấy, xuất hiện ở cửa phòng. Anh đưa trả tôi chiếc xanhtuya và kh ẩu trung liên rất nhã nhặn bảo tôi: - Thưa đồng chí thượng sĩ, xin đồ ng chí hãy xu ống s}n, xe đang chờ đồng chí. Nhưng trước hết xin hãy sửa sang lại tư thế. Tôi bướ c xu ống cầu thang, ra sân. Ở đó, quả th ật, có một chiếc xe con mà u đen. Người sĩ quan chỉ tay về phía cửa xe. Bây giờ đến lượt tôi ngạc nhiên: sao lại có vinh d ự ấy? Ngồi vào xe, tôi h ỏi người đi cùng, anh ta trả lời: - Tôi được lệnh đưa đồng chí đến gặp Bí thư Trung ương Đả ng cộng sản Bônsêvích Kazắcxtan Kaisigulốp. - Thế đồng chí Kaisigul ốp làm gì?- Tôi h ỏi dè d ặt.
Người dẫn đường không chỉ ngạc nhiên, mà th ậm chí còn phật lòng: - Sao lại làm gì? Phụ trách công nghiệp quốc phòng, chứ còn làm gì! Anh ta chẳng giải thích gì hơn nữ a. Tôi ngồi đ}y trong xe m{ cứ như không phải là mình, tôi hình dung: Ch{o nhé Iôxif Nhicôlaievich!… Ch{o nhé Cố pchép! Hồi trước chiến tranh Cốpchép là trợ lý phụ trách thanh niên c ủa phòng chính tr ị. Trước khi v{o qu}n độ i mấy th|ng, chúng tôi đ~ cùng l{m việc với nhau, anh đ~ từ ng chỉ dẫn, giúp đỡ, ủng hộ tôi… Khi tôi từ quân y viện về Matai hỏi thăm bạn cũ, thì
được biết anh đ~ lên l{m việc trong ủy ban kiểm tra Đảng, thực thuộc ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Kazắcxtan, tôi có số điện thoại cơ quan củ a anh. Đồng chí Kaisigul ốp t ất nhiên, hiểu ngay là khẩu súng được chế t ạo trong điều kiện th ủ công, cần ph ải hoàn thiện hơn nữ a và lập tài liệu k ỹ thuật một c|ch cơ bản cho nó, và có th ể sản xuất một vài mẫu nữa hoàn thiện hơn. Nhưng l{m ở đ}u? Ông nhắc m|y điện thoại, nói chuy ện với ai đó. Rồi quay sang phía tôi, ông nói: - Tôi mời trưởng khoa trường đạ i học h{ng không M|txcơva, kỹ sư qu}n sự bậc hai Kazacốp, m ột người am hiểu v ề vũ khí đên đ}y gặp tôi, để hai đồng chí làm việc với nhau. Các sinh viên khoa trên c ủa khoa sẽ giúp đồng chí thiết kế kỹ thuật, tính toán và lập bản vẽ. Ở đó đồng chí sẽ giải quyết t ốt hơn mọi vấn đề liên quan đế n việc hoàn thiện và chế thử các mẩu thử nghiệm. Trong việc này họ có khá nhiêu kinh nghiệm, và trang thi ết bị ở đó cũng tốt. Tôi đ~ có dịp ở đó nhiều lần và biết nhiều các chuyên gia, các nhà khoa h ọc làm việc ở trường. Cuộc nói chuyện rất thân tình, thi ện chí và tin c ậy. Thậm chí không thể tin được rằng, trước đó mấy giờ tôi vẫn còn cay đắng nghĩ đế n công việc không th{nh, nghĩ đến số ph ận tôi có th ể sẽ xoay vần sang hướng hoàn toàn khác. Mà qu ả thật, những bước ngoặt trong cuộc đời người, đôi khi thật đột ngột. Cửa phòng làm vi ệc mở, một sĩ quan mặc quân phục mùa hè bước v{o. Đồng chí Kaisigulốp giới thiệu tôi: - Đồng chí Anđrêi Ivanôvích, đề nghị đồng chí đỡ đầu đồng chí thượng sĩ. Những gì m{ đồng chí ấy trình bày theo tôi là thú v ị và có triển vọng. C|c đồng chí hãy cùng chế t ạo mẫu, giúp nhà phát minh tr ẻ. Trong quá trình làm vi ệc hãy thông báo cho tôi biết. Đặc biệt khi bắt đầu công việc hoàn thiện, bán thử phải báo cho tôi biết. Các đồng chí đừng quên là tôi muốn l{ người đầu tiên được bắn thử khẩu tiểu liên của c|c đồng chí. Xin chúc c|c đồng chí thành công. Nếu nói rằng, lúc đó tôi tr{n ngập ni ềm vui sướng thì chưa đủ. Tôi như đượ c ch ắp cánh bay lên không trung. Tôi mu ốn h|t. Nhưng tôi ngồi yên trong xe, nhìn Kazacôp ghi chép gì đó v{o sổ tay. Chúng tôi đi đến trườ ng. Bây giờ thì đ~ đến lúc tôi nghĩ, mình có thể l{m được mọi việc cần thiết.
Nh{ trường cho thành lập một đội công nhân (tên gọi đầy đủ l{ “đội công nh}n đặ c biệt của Ban chấp h{nh Trung ương Đả ng Cộng sản Kazăcxtan”) có nhiệ m vụ hoàn thiện tiếp khẩu tiểu liên. Trong đội có giảng viên trường Epghênhi Pêtrôvich Eruxlanốp và một số sinh viện khóa trên kết hợp làm việc trong phòng thí nghiệm của khoa. Tu ổi trẻ và lòng say mê công vi ệc đ~ xích chúng tôi lại g ần nhau và thành
bạn bè thân thiết. Linh hồn của đội là Xecgêi Côxtin, m ột người làm việc không biết mệt và rất t ỷ mỷ, c ẩn tr ọng trong việc gi ải quyết các vấn đề kỹ thu ật. Sau n{y ông đ~ trở th{nh gi|o sư, đ{o tạ o nhiều thế hệ học trò. Vichiaxlap Cutrinxki đ~ giúp chúng tôi rất nhiều trong việc nắm vững kỹ thuật thiết kế và vẽ, sau n{y ông cũng trở thành gi|o sư, phó tiến sĩ khoa họ c kỹ thuật. Chúng tôi đ~ trở thành những người bạn t ốt của nhau. Tình b ạn của chúng tôi bên ch ặt cho đến ngày nay. Tôi lại nhớ đến Ivan Xakian một người sôi nổi, nhiệt tình…
Trong c|c xưởng sản xuất – học t ập của trường có nhiều thợ cả lành nghề bậc cao. Nhiều người trong số đó đ~ l{m đơn tình nguyện ra mặt tr ận nhiều l ần. Thợ ngu ội – mẫu Kikhain Philipôvich Andriepxki (anh l{ ngườ i chế t ạo c|c dưỡng, khuôn rập, dụng c ụ chuyên dùng và tham gia l ắp mẫu ch ế th ử), thợ phay Cônxtantin Akimôvich Gudim, thợ tiện Nhicôlai Ignachievich Patutin, th ợ gò Mikhain Grigôrievich Trernomôrex nh ững người th ợ lành nghề trên đ~ d{nh cho chúng tôi sự giúp đỡ quý báu vô cùng trong việc hoàn thiện mẫu chế thử. Khi công vi ệc gần đến giai đoạn cuối, thì các nhân viên c ủa khoa “cắt gọt kim loại, máy công cụ, và dụng cụ”, trưởng phòng thí nghiệm Vaxili Ivanôvich Xuxlôp v{ Kar Karlôvich Kandl người Latvia cũng tham gia vào công việc. Việc hoàn thiện mẫu chế thử đ~ diễn ra tương đối nhanh, đườ ng nhiên là do nhà trường đ~ d{nh cho chúng tôi những ngươi thợ có chuyên môn cao. Khi c ần phải bắn thử để kiểm tra, chúng tôi đ~ tổ chức v{o ban đêm trong ph}n xưởng dụng cụ. Chúng tôi dựng đứng những t ấm gỗ vào một góc nh{ sau đó xếp các thùng cát ch ắc chắn phía sau; kh ẩu súng được cố định trên một êtô, cò súng được nối với một sợi dây ròng sang phòng bên c ạnh. Chúng tôi b ắn vài phát m ột. Nếu sau đó cần phải chỉnh, mà chủ y ếu l{ giũa c|c chi tiết, thì chúng tôi t ự làm lấy, ngay trên chiếc êtô ấy. Xong lại bắn. Cứ thế cho đến sáng.
Sau đó đem bắn thử ngoài thành ph ố, trong núi. Khi đ~ x|c định đượ c khẩu súng máy làm việc t ốt, độ ch ụm không kém, chúng tôi quy ết định b|o c|o cho đồng chí Bí thư Ban chấp h{nh Trung ương biế t. Thật ra thì cũng không có sự thay đổi nào lớn hơn về thông số vì ở trường bắn không có dụng cụ đo cần thiết. Đồng chí Kaisigulốp đến cùng với m ột thiếu tướng. Thiếu tướng l{ người đầ u tiên kiểm tra chức năng v{ chất lượng làm việc của khẩu trung liên nh ẹ, m{ anh em trong đội đặ c biệt gọi là ППК. Đ|nh gi| sự làm việc của khẩu súng, thiếu tướng chỉ nói có một t ừ: - Tốt! - Sự đ|nh gi| của nhà quân s ự như thế l{ kh| cao đấy, – Kaisigulốp tiến lại gần – Còn đ|nh gi| đó có s|t thự c hay không, tôi mu ốn t ự mình kiểm tra. Nhà sáng ch ế tr ẻ nghĩ thế nào? Không phản đối chứ?
Ông bắn thứ kh ẩu súng với s ự thích thú đặc biệt, v{ hình như ông rất hài lòng về nó. Ông mải mê bắn đến nỗi, chỗ đạn chúng tôi mang theo h ết lúc nào không bi ết. Đến lúc ấy ông mới đứng dậy, cảm ơn mọi người vì đ~ ho{n th{nh tố t công việc. Riêng với tôi, ông nói: - Đồng chí đ~ lao động một cách tuyệt vời. Tuy nhiên ý ki ến của chúng tôi không phải là quyết định cuối cùng. Chúng tôi ch ỉ có thể cùng chia s ẻ niềm vui vì thành tích của c|c đồng chí. Ý kiến quyết định thuộc v ề c|c chuyên gia vũ khí bộ binh. Thế nên, đồng chí Kalasnhic ốp hãy chuẩn b ị đi Xamarcan. Hiện nay học vi ện pháo binh mang t ên Đzerzinxki đang ở đó – Và ông quay v ề phía Cazac ốp, nói – Anđrêi Ivanôvich, đồng chí hãy vi ết thư giới thiệu g ửi Hội đồng quân sự qu}n khu Trung \ v{ gi|o sư Blagônvarốp ở Xamarcan. Tôi s ẽ ký. Những phố nhỏ phương Đông ồn ã b ởi nh ững tiếng nói khác nhau c ủa thành phố cổ Xamarcan đ~ l{m tôi cho|ng ngợ p. Tiếc là tôi không th ể xem kĩ c|c nh{ thờ Rêgixtan v{ chiêm ngưỡng v ẻ ki ều di ễm c ủa gi|o đường Biphi-Khanum, cũng không kịp thăm mộ Timuar. V ề sau tôi m ới có dịp t ới thăm. Còn lúc ấy tôi đang vội đế n gặp gi|m đốc học viện. Nhà bác h ọc nổi tiếng n{y, người đầu tiên đ~ tổ ng hợp những kinh nghiệm thiết kế vũ khí bộ binh t ự động và nghiên c ứu kết quả thống nhất hóa những kinh nghiệm đó, sẽ nói gì với tôi? Tôi báo cáo thi ếu tướng gi|m đốc và chuyển thư giới thiệu cho ông, Anatôli Arcađievích đọc xong, nói: - Thư giới thiệu, được rồi. Tôi mu ốn xem kh ẩu súng mẫu.
Đặt mẫu súng lên bàn làm việc của thiếu tướng, tôi bắt đầu giải thích cấu t ạo c ủa chúng, chỉ các bản vẽ và giới thiệu k ết quả bắn thử. Ông chăm chú nghe, n hìn, rồi bất ngờ t ự mình, tháo kh ẩu trung liên. Ông làm r ất nhanh và t ự tin, cứ như l{ đ~ biế t nó t ừ trước và thông thạo cấu t ạo của nó. Trong lòng tôi b ỗng dậy lên một tình cảm ganh t ị. Tuy vậy, khi thấy vị tướng tóc đ~ bạc, m ột trong những người có uy tín nh ất trong lĩnh vực công việc m{ tôi đeo đuổi, quan tâm sâu s ắc đến đứa con của tôi, thì tôi cảm giác vinh d ự. Ông là nhà lý thuy ết cỡ lớn. Tôi vẫn nhớ thuộc lòng đặc tính của loại trung liên nh ẹ ППС m{ ông viết trong cuốn sách về vũ khí tự động: “Súng t rung liên nhẹ thiết kể để dùng đạn súng lục, đó chính l{ sự khác biệt chủ yếu của nó so với súng trường t ự động, nó có lợi th ế v ề tr ọng lượng, thuận ti ện khi mang vách, có th ể bắn t ự động; hộp đạn khá lớn nhưng phạm vi hiệu lực thì rất hạn chế”. Giờ đ}y vị tướng, gần như l{ trọng tài chính, s ẽ nói gì về “lợi thế” của khẩu Matai của chúng tôi?
Bày tách riêng t ừng chi tiết một trên bàn, vị tướng bắt đầu hỏi tôi về những khó khăn gặp phải khi chế t ạo chúng. Ông thật ngạc nhiên khi biết rằng tôi không được học chuyên ng{nh vũ khí v{ “khẩ u trung liên nhẹ số Một” nằm trước mặt ông được chế t ạo ở xưởng đềpô hỏa xa. Ông còn hỏi thêm một số câu hỏi m{ hình như chẳ ng liên quan gì đến s ự hi ện diện của tôi ở đ}y: về gia đình tôi, về công t|c trước khi vào qu}n đội, và hiện nay về cuộc sống ngoài mục tiêu. Tôi không “b|o c|o” m{ kể chuyện về mọi mặt cho vị tướng đang lắng nghe tôi nói, như l{ kể với người bạn vong niên của mình.
Anatôli Arcađievích Blagônvarốp là một người tinh t ế, có tri th ức. Ông đ~ chinh phục tôi bởi lòng nhân t ừ, bởi sự sốt sắng tham gia không chỉ vào số phận khẩu súng mẫu mà còn tham gia vào c ả số phận đời tôi. Nói chuyên với ông mà tôi c ứ tưởng khi n{o đấy, đ~ từ lâu rồi, t ừ nh ững ng{y thơ ấu hạnh phúc, tô đ~ thấy ông, đ~ biế t ông – và nay, cuối cùng chúng tôi đ~ gặp lại nhau.
Anatôli Arcađievich bảo tôi “chị u khó ngồi chờ một chút” rồi ngồi xuống bàn bắt đầu viết c|i gì đó, thỉnh thoáng lúc thì nhìn sang phía tôi, lúc thì nhìn vào các chi ti ết trên bàn. Tôi cảm th ấy ông viết r ất lâu mới xong. Rồi cho gọi thư ký, một cô gái Ucraina tr ẻ, mắt đen, ông nói: “H~y cố gắng đ|nh m|y gấp c|i n{y cho tôi”. Tôi nóng ruộ t muốn biết ông viết gì trong “tờ phán quyết” ấy? Nhưng ông lại nói tiếp câu chuyện cũ đang bỏ dở. Ông khuyên tôi nên dọc nhiều các tài liệu v ề vũ khí chuyên ngành (mãi r ồi tôi mới được làm quen v ới tài liệu này ở ngay trong trường ông), phải ph ấn đấu nghiên cứu không được t ất cả, thì t ối thiểu cũng phải được phần lớn nội dung tài li ệu về những gì đ~ l{m được trong lĩnh vực n{y trước đó. “Không l{m được c|i cũ thì không l{m được cái mới t ốt được!”
Lúc n{y cô thư ký bước v{o, đặt lên b{n văn bản đ~ đ|nh m|y xong. Ông đọ c lại xong, ký tên phía dưới. Ông cho vào phong bì m ấy t ờ giấy: rồi t ự ghi địa chỉ bên ngo{i bìa. Ông đưa cho tôi hai tờ. Tôi định đọc lướ t nhanh nội dung, nhưng vì hôi hộp cứ lẫn dòng nọ sang dòng kia, nên ch ả hiểu gì cả. Cứ như l{ đọc bản án – được sống hay là phải ch ết. Còn vị tướng thì bắt ch ặt tay tôi nói nhẹ nh{ng: “Hai tờ này là của đồng chí, đồng chí thượng sĩ, còn phong bì thì gửi cho Tư lệ nh quân khu Trung Á. Chúc đồng chí th{nh đạt trong sự nghiệp khó khăn n{y. Chúc lên đườ ng may mắn”. Với tâm trạng h ết sức hồi h ộp, tôi bước ra khỏi phòng làm việc c ủa gi|m đốc H ọc viện, đến g ần c ửa s ổ và bắt đầu đọc. Đ}y l{ hai văn bả n khác nhau. Tôi chưa bao giờ được đọc loại giấy t ờ tương tự như thế. Đ}y l{ giọng nói của người cha, nhưng lạ i hám chứa s ự tôn trọng kh|c thường đối v ới m ột hiệp sĩ trẻ như tôi. Tôi đọ c và cảm
động đến nghẹn ngào trong c ổ. Tôi c ố kìm mình lại để bước ra ngoài với bộ mặt bình thản, nghiêm nghị mà một người lính phải có. Đ~ về đến khách sạn, tôi vẫn còn đọc đi đọ c lại mãi hai t ờ giấy. C ả hai đều in trên mẫu chung của Học vi ện và thuộc lo ại giấy t ờ r ất quan trọng. Và qu ả thật nh ững văn bản n{y đ~ đóng vai trò rấ t quan trọng trong sự nghiệp sáng chế của tôi. Tôi vẫn còn giữ chúng trong tài liệu lưu trữ của tôi. Tôi mu ốn sao lại toàn bộ ở đ}y những giấy t ờ trên để minh chứng cho mối quan hệ khách quan, trung th ực, quan tâm c ủa Anatôli Areađievích đối với những người mà ông phát hi ện ra có “tia lóe s|ng củ a một tài năng”. Đ}y l{ thư gửi về Kazắcxtan của gi|m đốc Học viện: “Kính gửi đồng chí Kaisigul ốp, Bí thư Ban chấp h{nh Trung ương Đả ng Cộng sản Kazắcxtan. Đồng kính gửi đồng chí Đancốp phó chủ nhi ệm pháo binh Quân khu Trung Á, ph ụ trách hậu cần. Nhận xét về khẩu trung liên nhẹ do đồng chí Kalasnhicốp M.T thiết kế. Mặc dù do tính ph ức t ạp và một loạt tính năng kh|c biệ t so với tiêu chuẩn kỹ thuật, mẫu súng chưa thể áp dụng rộng r~i được, song phải ghi nh ận l{ đồng chí Kalasnhicốp có một phát minh xuất sắc, đ~ thực hiện được một công việc hết sức khó khăn, v{ to lớn với một nghị lực phi thường. Trong công t|c n{y đồng chí Kalasnhicốp đ~ tỏ rõ là m ột ngươi tự học đầy t{i năng. Tôi cho rằ ng, nên cử đồng chí Kalasnhicốp đi học để có học vấn kỹ thuật. Đ}y l{ bước đầu, phù hợp với nguyện vọng c| nh}n v{ điề u kiện thời chiến. Ngoài ra, tôi cho r ằng c ần phải tuyên dương khen thưởng đồng chí Kalasnhic ốp vì những việc đ~ l{m. Phụ chú: in thành hai b ản.
Ng{y 8 th|ng 7 năm 1942. Ký tên. Văn bản thứ hai, gửi Hội đồng quân sự quân khu Trung Á và b ản phôtô gửi cho tôi, người thiết kế mẫu súng cũng thật đ|ng chú ý. “Đồng chí thượng sĩ Kalasnhicốp trong thời gian nghỉ dưỡng thương đ~ thiết kế, chế t ạo được mấu súng trung liên nhẹ, mang đến Học viện pháo binh xin ý ki ến nhận xét. Mặc dù mẫu súng vì lý do c ấu t ạo phức t ạp v{ không đ|p ứng được những yêu cầu về tính năng – chiến thuật nên không thể đưa v{o sản xuất. Tuy nhiên, căn cứ
vào tính sáng t ạo phi thường, cùng nghị lực và công s ức bỏ ra c ũng như một loạt các giải pháp k ỹ thuật độc đ|o đ~ |p dung… ta có thể nói rằng đồng chí Kalasnhic ốp là một người t ự học đầy t{i năng, cần được t ạo điều kiện học kỹ thuật. Nếu được đưa v{o đúng quỹ đạo, đồng chí Kalasnhicốp có thể sẽ trở thành một nhà thiết kế giỏi. Tôi cho r ằng có thể khen thưởng cho mẫu thiết kế v{ đề nghị cử đồng chí Kalasnhicốp đi học kỹ thuật”. Có l ẽ để tăng thêm tính thuyết phục, dưới chữ ký ông viết đầy đủ t ất cả các chức danh: nhà hoạt động khoa học – k ỹ thu ật công hu}n, gi|o sư – tiến sĩ kỹ thu ật, thiếu tướng pháo binh Blagônvar ốp. Thế l{, năm 1942 Anatôli Arcađievích Blagônvarốp đ~ đưa tôi v{o “quỹ đạo cần thiết” v{ m~i sau nhiều năm, ông lạ i gặp tôi trên một điểm giao nhau khó khăn củ a quỹ đạo ấy, đến lúc đó ông mới có thể tin rằng tôi đang đi theo quỹ đạo n{y như thế nào. Viết đến đ}y, tôi thèm được kể ngay về cu ộc g ặp quý b|u n{y đố i với tôi, nhưng việc gì cũng phải có gi ờ của nó, ta sẽ gắng chờ.
Ở Tasken, trung tướng Curbatkin, Tư lệnh qu}n khu đ~ tiế p tôi. - N{o, n{o, để tôi xem gi|o sư Blagônvarốp kính mến viết gì về mẫu súng của đồng chí – Ông rút t ờ giấy t ừ phong bì ra – T ức là cử đồng chí học thiết k ế à? Việc này cần thiết đ}y. Nhưng phải hoãn lại m ột th ời gian đ~. Tôi cho rằng trướ c h ết ph ải c ải ti ến khẩu súng. Vậy thì hãy cứ t ự học trong quá trình công tác th ực t ế đ~.
Tư lệnh một lần nữa xem lại bức thư của gi|m đốc Học viện, rồi quay sang sĩ quan thanh tra v ề sáng chế: - Khi thảo quyết định, đồng chí nhớ đưa v{o mục thưởng tiền cho đồng chí thượng sĩ. Thứ nữa là, chu ẩn bị giấy t ờ cần thiết để cử đồng chí Kalasnhic ốp đi công t|c
M|txcơva.
- Đi Tổng cục pháo binh ạ?- Ngươi thanh tra hỏi lại. - Đúng, đồng chí sẽ vi ết thư giới thiệu g ửi T ổng c ục pháo binh, l ời l ẽ cho tình c ảm vào, bớt bớt khuôn s|o đi. Đồng chí thượng sĩ l{ đạ i diện của quân khu Trung Á v ẻ vang của chúng ta, chứ không phải t ừ đơn vị không tên nào. - Thế đồng chí nhập ngũ từ đ}u?- Trung tướng quay lại phía tôi. - B|o c|o đồng chí Tư lệ nh, t ừ Alma-Ata ạ.- Thế h ả? T ốt lắm, nhà thiết k ế trẻ sinh ra t ừ Turkêxtan. Hy v ọng đồng chí sẽ phát huy truy ền thống vẻ vang của quân khu.
Dần dần với năm th|ng, tôi mới sáng t ỏ ra r ằng, trong phát minh của tôi không ch ỉ tích t ụ niềm khát vọng cháy bỏng của t ất cả chiến sĩ chúng ta có được thứ vũ khí xứng đ|ng để bảo vệ Tổ quốc, mà còn phản ánh sức sáng t ạo của nhân dân. Tôi tin rằng: AK-47 là th ể hiện ý chí đó.
H~y để nó trở th{nh đ{i kỷ niệm chung cho t ất cả chúng ta – những chiến sĩ có tên và không biết tên. H~y để nó trở thành biểu tượng cho sự thống nhất của nhân dân vào th ời điểm khó khăn của Tổ quốc. Tôi không bi ết đường đến trường b ắn. Đến được đó l{ mộ t vi ệc ph ức t ạp, vì xung quanh khu vực này có cả một hệ thống bảo vệ đặc biệt. Trong khi trưởng phòng sáng chế còn đang suy nghĩ, đưa tôi đến trườ ng bắn bằng cách nào ti ện nhất, thì có một người trung tuổi, trên ngực |o đeo mề đay bước vào phòng.
Trưởng phòng đứng dậy đón kh|ch, ch{o hỏ i, rồi nói giọng vui mừng: - Xecg}y Gavrilôvich, hôm qua đồng chí đ~ l{m thủ t ục ra trường bắn, cho tôi g ửi đồng chí thượng sĩ. Có đồng chí thì đồng chí ấy mới đến đ}y được, không ai đụ ng đến, và cho ra khỏi xe được. - Nh ất trí thôi. Đi hai người vui lắm. Đường xa đấy. nào ta hãy làm quen v ới nhau, đồng chí thượng sĩ. Tên v{ phụ danh tôi, đồng chí biết rồi. Còn họ – là Ximônốp. – Ông chìa tay ra cho tôi. Ximônốp!… Đ}y l{ một trong những nhà thiết kế h{ng đầu của chúng ta. Tên tu ổi ông trước chiến tranh bất kỳ qu}n nh}n n{o cũng biết: Ông l{ ngườ i sáng chế ra khẩu súng trường ABC.
Hồi đầu chiến tranh, khi xe tăng Đức xuất hiện bất ngờ tung hoành gây hoảng hoạn cho ta, người ta kể một huyền thoại rằng: Theo lệnh riêng c ủa Stalin, sau 22 ng{y đêm liền không ngủ, Ximônốp đ~ chế t ạo được mẫu thứ nhất của khẩu súng chống tăng ПTPC. Đ}y l{ mộ t vinh hạnh đối v ới Xécgêi Gavrilôvich, vì th ực t ế thì đến t ận cuối cuộc chiến tranh, người Đứ c vẫn chưa giải quyết xong vấn đề vũ khí chống
xe tăng Liên Xô.
Tôi phải nói ngay r ằng, t ừ ng{y đầu mới l{m quen cho đền t ận khi ông m ất, chúng tôi vẫn có quan hệ t ốt với nhau. Trong cu ộc đời tôi Ximônốp chiếm một vị trí đặc biệt. Ông luôn sẵn s{ng đ|p ứng các yêu cầu của tôi, đi s}u v{o thự c chất vấn đề, không bao giờ t ỏ ra cách bi ệt v ề tu ổi tác và t ất nhiên, cả về kinh nghiệm giữa ông và tôi. Trong toa t ầu, chúng tôi nói chuy ện với nhau. Ông thật giản dị và dễ gần trong giao tiếp. Ông kể cho tôi nghe vê căn cứ trong trường b ắn, ông khuyên tôi nh ất thiết phải đến thăm bảo t{ng vũ khí trong căn cứ , ở đó có trưng b{y c|c hệ thống vũ khí đ~ chế t ạo ở trong v{ ngo{i nước, hệ thống n{o, vì lý do dì không được trang bị, chỉ là mẫu thử… Ximônốp đột nhiên nheo m ắt, cười hỏi: - Cậu hãy nói cho mình nghe: c ậu thích tháo lắp máy không? - Còn phải nói!- Tôi reo lên! Tháo, l ắp, lại tháo, r ồi lại lắp, nắm vững t ừng cái tai, cái rãnh, t ừng chỗ lõm, t ừng c|i vòng đệm, t ừng con vít đều ph ải hi ểu c ặn k ẽ để bi ết tác dụng, và sự làm việc của nó như thế nào nào. - Khi đến trường bắn, đầu tiên cậu hãy tháo – lắp t ừng mẫu một. Khi nào c ả tay và mắt đ~ thông thạo kết cấu của chi tiết, thì lúc ấy cậu sẽ hiểu được nhiều hơn, tốt hơn, lúc đó sẽ hoàn chỉnh mẫu của mình dễ hơn. - Nhất định tôi sẽ l{m như vậy – Tôi h ứa với Ximônốp. - Đó l{ việc m{ ai cũng phải làm! Chẳng h ạn… Cậu đ~ khi n{o phải chui t ừ xe tăng ra và bắn trả bằng súng lục chưa? Thế đấy… trước chiến tranh thì không nói làm gì!
Đến trường bắn chúng tôi chia tay nhau. Và ch ỉ gặp lại nhau, cũng chính ở đ}y, khi cuộc chiến tranh Vệ quốc đ~ kết thúc. Lúc ấy chúng tôi vừa l{ đồng đội vừa l{ đối thủ của nhau, cùng có m ẫu vũ khí tương tự – cácbin t ự động n ạp đạn – đưa ra Hội đồng xét duyệt. Trong cuộc thi đua s|ng tạo ấy c ủa các nhà thi ết k ế, Xécgêi Garvilôvích đ~ thắng. Đó l{ năm 1943, khi súng c|cbin của chúng ta lúc đó chuyể n sang dùng cỡ đạn mới. Đ}y chính l{ giai đoạ n mới trong việc chế t ạo vũ khí bộ binh t ự động. Súng cácbin t ự nạp đạn CKC-45 cỡ đạn 7,62mm của Ximônốp có lẽ người n{o cũng thấ y rồi, không thấy gần, thì cũng thấy t ừ xa, không th ấy trên tivi, thì cũng thấy trên phim
ảnh; và trong nhiều năm, chính những ngườ i lính gác trên v ọng gác số Một cạnh lăng Lênin đ~ dùng loại súng này. Theo lời khuyên của Xecgêi Garvilôvich, c ứ lúc nào rảnh là tôi lại chạy sang viện bảo tàng. Bộ sưu tập vũ khí ở đ}y quả thật rất đa dạng. Thông qua các m ẫu cụ thể, bộ sưu tập cho ta th ấy rõ sự tiến triển của vũ khí. Tôi cầm trong tay những khẩu súng trường, súng cácbin, súng lục, tiểu liên, trung liên mà c ứ suy ngẫm mãi một điều rằng, có biết bao nhiêu nh ững giải pháp thiết k ế khác nhau, có bi ết bao nhiêu nh ững ý tưởng sáng t ạo của các nhà sáng chế thật bay bổng lãng mạn không ngờ t ới, và cũng có không biết bao nhiêu nh ững m ẫu trong nước v{ ngo{i nước được th ực hi ện giống nhau.
Đối với tôi, được th ấy trong bảo tàng nhiều m ẫu chưa được th ử, ho ặc nh ững m ẫu n{o đó vì c|c lý do kh|c nhau không đượ c trang bị cho qu}n đội, có ý nghĩa đặ c bi ệt quan trọng. Tôi nhiều l ần tháo các mẫu đó ra, nghiên cứu mối quan hệ lẫn nhau giữa các bộ phận v{ c|c cơ cấu. Và m ỗi lần tháo mẫu, tôi đều tìm hiểu nguyên nhân, t ại sao mẫu đó không được thử, v ấn đề là ở ch ỗ n{o? Đôi lúc tôi ph|t hiện ra rằng, tính độc đ|o không phải lúc n{o cũng đem lạ i ích lợi. tôi cho r ằng không có một mẫu vũ khí nào trong b ảo tàng nằm ngoài t ầm mắt, và t ầm tay tôi. Đó chính l{ học vấn cơ bản của tôi. Tiếc l{ tôi không đủ thời gian dành cho các cu ộc tham quan sâu v ề thiết kế như thế. Đ~ đến lượt thử khẩu trung liên nhẹ của tôi. Biết bao nhiêu h ồi hộp và lo lắng, nhưng mẫu không có trục trặc gì lớn. - Mẫu của đồng chí thượng sĩ l{m việ c không t ồi, nhưng kết luận mẫu đạt, thì tôi không dám nói ch ắc – người kỹ sư thử, sau một loạt bắn, thở dài nhìn nòng súng nóng đỏ, nói. - Sao đồng chí lại nghĩ thế? Mọi việc đều bình thường cả cơ m{. - N ếu cùng lúc trang b ị nhiều loại trung liên nh ẹ khác nhau s ẽ tăng phí, chúng tôi đ~ tiến hành thử r ất thành công m ẫu c ủa Xudaép. M ẫu của đồng chí không có nh ững ưu điểm vợt trội so với mẫu của Xudaép. Đương nhiên đ}y chỉ là ý kiến của riêng tôi. Tuy thế, tôi vẫn hài lòng về mẫu n{y. Đồng chí hãy sẵn sàng nghe quyết định của Hội đồng.
Người kỹ sư thử nhiều kinh nghiệm đ~ chặn trước những kết luận vội vàng của tôi, và theo tôi hi ểu, anh đ~ có th iện ý chuẩn bị tư tưởng, tinh thần trước cho tôi. V{ sau đ}y l{ kết luận chính thức do trưởng phòng ủy ban pháo binh thu ộc Tổng cục pháo binh Hồng quân, trung tá – kỹ sư Rôgasepki v{ trợ lý của ông, đại úy – kỹ
sư Tremen ký; ký duyệt: trung tướng Khakhlốp, Tổng cục phó Tổng cục pháo binh, chủ t ịch ủy ban pháo binh. “Căn cứ vào biên bản c ủa trường bắn, ng{y 9 th|ng 2 năm 1943 (No2734) v{ sau khi nghe ý kiến của tác giả, phòng 5 ủy ban pháo binh Tổng cục Pháo binh cho rằng: 1. Kết quả thử mẫu trung liên nhẹ của nhà thiết kế Kalasnhicốp đạt trung bình. Kết luận của trường bắn về nguyên nh}n hóc l{ điểm yếu của mẫu: “Sau khi bóp cò, kim hỏa đập nhẹ, không đủ lực làm nổ hạt nổ, vì khi nó chuy ển động cùng cơ bẩm t ới điểm trên nhất thì bị m ất năng lượng:. Vấn đề là ở ch ỗ, lúc bóp cò thì cơ bẩ m còn c|ch điểm trên nhất 2mm, còn kim hỏa thì cách 4mm. Vì v ận t ốc kim hỏa bắt đầu tăng từ không, còn vận t ốc cơ bẩm đang ở điểm c ực đại, nên kim hỏa không thể nào chuyển động kịp cơ bẩm. Lý do rõ ràng nh ất dẫn đến hóc đạn là lực cản phụ phát sinh t ừ mối h{n đắp trên ống lò xo. 2. S ửa ch ữa để hoàn thiện mẫu trung liên nh ẹ: Tiến hành khắc phục các thiếu sót sau:a) Giảm t ốc độ bắn (t ừ 824 viên/phút xu ống khoảng 700 viên/phút) bằng cách tăng trọng lượng khớp nối thay đổi bước rãnh xoắn nòng. b) Khắc phục bộ ngắt bị kẹt bằng cách giảm ma sát các c ạnh bên của nó với hộp đạn v{ tăng lực lò xo. Việc tăng đường kính lỗ thoát vỏ đạn đ~ được tiến hành ở trường bắn trong quá trình thử. 3. Trung liên nhẹ c ủa Kalasnhic ốp ch ế t ạo phức t ạp hơn v{ gi| th{nh đắt hơn mẫu ПП-41 v{ ППС, hơn nữa mẫu đòi hỏi ph ải gia công trên máy phay, ch ậm hơn v{ m|y lại khan hiếm. Do vậy, mặc dù có nhiều mặt khác bù lại (trọng lượng nhẹ, kích thước ngắn hơn, bắn phát một được, kết hợp cần gạt và chốt an toàn, thông nòng, g ọn nhẹ…) nhưng mẫu của Kalasnhicốp không thể đại di ện cho nhóm mẫu cùng loại, để đưa sang chế t ạo, phù hợp với lợi ích sản xuất công nghiệp”. - Đừng quá thất vọng, – Thấy tôi suy sụp tinh thần, người kỹ sư thử, an ủi – Tốt hơn hết l{ h~y định hướ ng cho một công việc mới kh|c n{o đó bền và chắc chắn hơn. - Tôi vẫn tin rằng mẫu súng của tôi sẽ được các chiến sĩ ngo{i mặt trận dùng để đ|nh qu}n Đức. Thế mà, bây giờ… - Cậu nghĩ rằng Điôchiarep, Tôcarep, Ximônố p hoặc Xuđaép không từng bị thất bại {! Trước khi chế t ạo được một c|i gì đó th{nh công, họ đ~ phải nhiều lần muối mặt trước những kết luận không hề thương tiếc. Hồi đồng xét duyệt là t ập hợp của những người khắt khe mà lại! Cậu phải biết r ằng, đ~ có nhiề u mẫu không đạt của các
nhà thiết kế nổi tiếng cũng có, chưa nổi tiếng cũng có đ~ qua tay mình. Chỉ có cái là họ không bao giờ ngã lòng, không khóc than van v ỉ. Ngược lại, mỗi lần thất bại làm l{m tăng thêm sức m ạnh và khi h ọ đến th ử lần sau đ~ có những m ẫu t ốt hơn, v{ đôi khi còn có hẳn một sản phẩm mới. Những l ần chuyện trò với các kỹ sư thử nghiệm, thường thường giúp tôi hiểu sâu hơn c|c công việc “bếp núc” của các ý t ửng thiết k ế, c ủa các công việc c ải tiến, hoàn thiện, cũng như c|c mối quan hệ lẫn nhau. Giao tiếp với họ, luôn đem lại ích lợi, tôi hiểu rõ điều này khi tiến hành công việc hoàn thiện mẫu súng đầu tiên của mình. Thế còn số phận khẩu trung liên nhẹ đầu tiên của tôi ra sao? Hi ện nay mẫu súng n{y để ở Viện bảo tàng lịch sử pháo binh, công binh – công trình và thông tin liên l ạc ở Lêningrát. Vẫn như xưa, đôi với tôi nó l{ đứa con đầ u lòng trong s ự nghiệp th ết k ế của tôi, đứa con được sinh ra trong đau khổ, trong điề u kiện chiến tranh phức t ạp nhất. Trở về T ổng c ục ph|o binh, Vlađimir Vaxilievích Glukhố p sau khi h ỏi c ặn kẽ tôi về quá trình thử nghiệm, ông nói, vẻ quan tâm: - Giờ đồng chí làm gì ti ếp? - Nếu được phép, tôi xin ti ếp t ục làm súng máy xách tay. - Ừ, thì làm súng máy. Ngay t ừ năm ngo|i đ~ công bố thi thiết kế rồi đó. Duy có điều cần lưu ý l{, c|c yêu cầu đố i với mẫu r ất cao. Cuộc thi sẽ có nhiều nhà thiết kế tham gia, nên sẽ có cạnh tranh quyết liệt. Thế là tôi tham gia vào cu ộc thi tiếp, để kết thúc công vi ệc mà tôi cùng với Giênhia Kraptrencô đ~ bắt đầu t ừ khi còn ở đềpô Matai: song song với việc chế t ạo trung liên nhẹ, hồi ấy chúng tôi còn làm c ả khẩu trung liên xách tay n ữa. Tôi đ~ mang “b|n thành phẩm” lên Alma-Ata và c ố gắng t ới mức có thể hoàn thiện nó trong c|c xưở ng sản xuất – học t ập của Trường đại học h{ng không M|txcơva. Tuy nhiên, việc làm này không thành, vì m ọi sức lực phải t ập trung vào việc hoàn thiện khẩu trung liên nhẹ. Sau khi t ừ M|txcơva về Taskent tôi được điều v ề m ột căn cứ c ủa quân khu Trung Á ở Uzơbekixtan. Cấp trên đ~ rất quan t}m đế n công việc của tôi. Thời chiến, quân số tính toán t ừng người một, nhưng Tư lệnh quân khu vẫn dành cho tôi một số công nhân lành nghề, nhà ở, dụng cụ, vật liệu. Mối quan hệ cộng tác thật quý báu. Và thế là, tôi lại th ấy xung quanh mình nh ững người say mê với công việc c ủa tôi. Mọi người làm việc hết mình, hết t{i năng. Trong nhóm c ó một thợ nguội có cái h ọ Đức l{ Kôkh. Anh được mệnh danh l{ người có “b{n tay v{ng”. Mọi chi tiết của anh
làm với m ột tình yêu đặc biệt, khi d ập phần b|ng súng anh điể m cả hoa văn trang trí lên sản ph ẩm – điều m{ trên vũ khí qu}n sự không được làm. Xong công việc, chúng tôi làm một chiếc thùng đặc biệt v{ đóng gói cẩn thận mẫu súng v{o đó. Cấp trên cấp giấy t ờ đi đường cho tôi và một đồng chí nữa. Chúng tôi lên đường đi M|txcơva. Mẫu được trình lên các chuyên gia quân s ự của Tổng cục pháo binh. Sau khi báo cáo Tổng cục trưởng, tôi được lệnh mang mẫu đi thử. Từ sáng sớm đ~ bất d ầu. Tham gia cu ọc thi có ba m ẫu súng máy khác nhau – m ẫu của B.A. Điôchiarép, mẫ u của C.G.Ximôn ốp và mẫu c ủa tôi. Ba mẫu n{y được lọt vào vòng chung kết. Tôi s ẽ không kể chi tiết về cuộc thi này. Nói v ắn t ắt là mẫu của tôi không qua được kỳ thi. Hội đồng thi kết luận: nó không ưu việt hơn c|c mẫu trướ c đ~ trang bị cho qu}n đội. Như vậ y khẩu súng máy xách tay c ủa tôi lại trở thành vật trưng b{y của bảo tàng. Phải thứ nhận là, thất bại n{y đ~ gi|ng một đòn v{o lòng tự ái của tôi. Đối với Điôchiarép cũng không nhẹ nh{ng gì hơn, mẫ u của ông cũng không được Hội đồng thi thông qua, sau n ữa, cuối cùng cả mẫu của Ximônốp cũng bị loại. Còn tôi, sau th ất bại tiếp theo n{y, đ~ rút ra đượ c cho mình k ết luận: Cần phải nghiên cứu càng sâu càng t ốt cả những gì đ~ l{m được v{ đang l{m trong lĩnh vực này. Nếu không, sẽ chẳng l{m được cái gì ra trò. Vì v ậy với lòng hăng say gấp bội, ngày ngày tôi lại vào viện bảo tàng của trường bắn để xem lại toàn bộ những gì đ~ có ở đó, thuộc lĩnh vực vũ khí bộ binh. Ngo{i ra tôi còn đọc nhiều tài liệu về phương pháp thử súng như c|c văn bản về các cuộc thử đ~ tiến h{nh. Tôi cũng tranh thủ trao đổi với các chuyên gia th ử giàu kinh nghi ệm về đề tài này. Ở đ}u tôi cũng tìm c|ch để mọi người giúp tôi trả lời câu h ỏi: “Tại sao c ả hai lần tôi đều ch ịu thất bại, sai sót ở đ}u?”. Tôi muốn t ự mình phải nhận ra t ất cả các thiết sót của mẫu, tiếp cận với sản phẩm của mình một cách khách quan. C ần phải học c|ch phê ph|n đối với những việc mình đang l{m. Qua những năm th|ng thi đua, cạ nh tranh với c|c đồng nghiệp – thiết kế, tôi đ~ nhận ra rằng, trong thiết kế anh phải luôn nghĩ đến tính tiện lợi khi sử dụng, hay như bây giờ người ta thường nói: Tính ti ện l ợi trong khai thác. M ẫu ph ải có cấu t ạo đơn giản t ối đa, độ tin cậy cao trong ho ạt động, không cho phép s ử d ụng các chi tiết kích thước nhỏ, dễ bị mất khi tháo r ời v.v… chỉ có kiên trì h ọc hỏi thông qua nh ững lần kiểm tra, thử nghiệm và thông qua các sai l ầm tôi mới xây dựng được phương ph|p để áp dụng cho công việc sáng ché của mình.
Trước kia, các m ẫu đầu tiên của tôi thất bại chính bởi không có những hiểu biết này, dẫn đến các mẫu làm ra không c ạnh tranh nổi với các mẫu đ~ được trang bị. Như đ~ nói trong b|o c|o kết quả thử, hai mẫu trung liên c ủa tôi không được dùng
để trang bị không ph ải vì không ưu việt hơn hẳn so với mẫu trang bị cho qu}n đội. Nó bị loại bởi vì không đ|p ứng được các yêu c ầu cơ bản đối với vũ khí chiến đấu. Đó là nguyên nhân hai l ần thất bại của tôi. Tôi đ~ cố gắng để đạt dược kết quả t ốt, nhưng không nghĩ đến có một tiêu chuẩn l{ đơn giản và bền chắc. Sau các thất bại đầu tiên, tôi như đứ ng ở ng~ ba đường. Có những người khuyên tôi: “Có lẽ cậu đ~ đến lúc chuyển sang làm việc gì khác, thôi việc chế t ạo vũ khí đi”. Bị ảnh hướng n ặng n ề những câu nói của đồng đội, tôi đ}m ra nghi hoặ c vào khả năng sáng t ạo ra một c|i gì đó của chính mình. Đang ở trong tình trạng thần kinh căng thẳng, thì tôi g ặp trưởng phòng sáng chế của ủy ban dân biểu B.B. Glukhốp đến trường bắn công tác. - Ta đi dạo m ột chút nhỉ? – Vlađimir Vaxilevích mờ i tôi – Tôi có câu chuy ện mu ốn nói với đồng chí. Tôi chuẩn b ị tinh thần nghe lời khiển trách hoặc nh ững l ời k ết lu ận n ặng n ề nh ất. Ông l{ người luôn nói th ẳng mọi sự thật, dù đố là sự thật cay đắng đến mức nào và đặc bi ệt r ất nguyên t ắc trong việc đ|nh gi| công t|c củ a các nhà thiết k ế… dù người đó có nhiều công trạng đến mức n{o chăng nữa. Còn tôi, chỉ là một người thiết kế trẻ, đ~ hai lần thất bại liên tiếp, biết chờ đợi gì đ}y? - Lo lắng l ắm h ả – Glukhốp đặt tay lên vai tôi – N ếu người thiết k ế bi ết lo lắng sâu sắc trước thất bại của mình thì đó l{ điề u t ốt. Nếu bây giờ chưa hiểu, thì sau này đồng chí sẽ hi ểu. Tôi ch ỉ khuyên đồng chí bên c ạnh sự lo lắng đau buồn đó, cần ph ải có thêm sự phân tích thực s ự phê phán nguyên nhân thất bại. Bây giờ ta thử xét lại một lần nữa xem, t ại sao mẫu của đồng chí bằng mẫu của Điôchiarép v{ Ximônốp, mà lại không được thử tiếp. - Hay là, tôi không nên làm ti ếp công việc thiết kế vũ khí? Vai v{ tay tôi hầu như đ~ bình thường. Tôi cần trở lại mặt trận, về đơn vị cũ… - Xem chừng nhiệt huyết giảm sút nhiều đấy – Valiđimir Vaxilievích dừng lại, rút tay trên vai tôi xu ống. – Ra mặt tr ận thì ngay ng{y mai đồng chí có thể đi được. Việc n{y đơn giản hơn nhiề u so với ở lại đ}y, ở hậu phương, đồng chí chế t ạo được thứ vũ khí cho cả đại đội, trung đo{n, sử dụng và nói chung cho toàn m ặt tr ận sử dụng đ|nh quân thù, hi ệu quả t ốt hơn, để góp phần nhanh chóng mang l ại chiến thắng cho Tổ quốc. Thế đồng chí có biết điều này không: c ả Điôchiarép, c ả Ximônốp, không ai d ễ dàng cả. Hay Xuđaép trong th{nh phố Lêningrát bị phong t ỏa đói rét, đ~ ho{n thiệ n khẩu trung liên c ủa mình, rồi mang ra tiền tuyến để tr ực ti ếp bắn th ử, lại d ễ dàng à? Anh bạn thân mến, hãy nhớ là, kinh nghiệm và kiến th ức ph ải tr ả qua một quá trình tích lũy, nếu ta không lười bi ếng, mới có được. Vậy nên, h~y bình tĩnh v{ chúng ta sẽ cùng nhau phân tích xem t ại sao th ất bại.
Chúng tôi tiếp t ục đi trên con đườ ng có hàng cây hai bên. - Như vậy là kết luận của Hội đồng thì nói r ằng, mẫu của cậu không được thông qua để trang bị, vì không có những ưu điểm cơ bả n so với các mẫu đang sử dụng. - Đúng như thế. - Nhưng đ}y l{ kết luận chung. Cậu ph ải đ{o s}u suy nghĩ hơn nữa. Và hãy t ự xác định ngay là: Mẫu không đ|p ứng được các yêu cầu ch ủ y ếu c ủa lo ại súng trung liên xách tay. - Sao không đ|p ứng ạ? – Tôi băn khoăn hỏ i l ại Vlađimir Vaxilievích – khi thiết k ế và chế t ạo mẫu t ất cả c|c điều kiện dự thi đ~ được tính toán kỹ. - Đấy m ới ch ỉ l{ điều kiện, còn những yêu cầu m{ người thiết k ế ph ải t ự đề ra cho mình. Chẳng hạn, anh đ~ n}ng cao được sự tiện lợi trong sử dụng vũ khí chưa? Cấu t ạo đ~ đơn giả n hóa t ối đa chưa? Độ tin cậy khi hoạt động có được nâng cao không? Các giải pháp trong thiết k ế của đồng chí có khác biệt nhiều so với các giải pháp tiêu chuẩn không? - Tôi đ~ cố gắng thiết kế không theo khuôn m ẫu – tôi bắt đầu vội vàng kể ra những cái mới, theo quan điể m của tôi, m{ tôi đ~ đưa v{o mẫ u của mình, khi thiết kế và hoàn thiện. - C|i độc đ|o trong thiế t k ế không được che khuất nh ững yêu cầu chính đề ra cho các loại vũ khí đó. N{y nhé, cậu hãy nói tôi nghe, sao h ộp đạn của một khẩu trung liên xách tay chỉ chứa được có 15 viên? Cơ cấu t ự động đồng chí giải quyết không t ồi, nhưng đ|ng tiếc là nó hoạt động không đủ tin cậy, thế là toàn bộ các giải pháp thiết kế độc đ|o bị xóa sạch. Còn độ chụm của mẫu thế nào? Ngoài nh ững điều nói trên, nếu cộng thêm một số chi tiết kh|c không được bên vững, thì ta sẽ có một bức tranh, có thể nói là, kém vui.
Chúng tôi còn đi kh| l}u trên con đườ ng rợp bóng c}y trong khuôn viên trườ ng bắn để phân tích, t ổng kết về mẫu trung liên xách tay c ủa tôi. Cu ộc nói chuy ện này đem lại cho tôi nhi ều điều. Bài học chủ yếu là không né tránh khuy ết điểm của bản th}n, có th|i độ t ự phê bình nghiêm túc trong vi ệc đ|nh giá kết quả lao động của mình. Lúc bấy gi ờ tôi còn thiếu nh ững điều này. Mọi người thường h ỏi tôi cùng m ột c}u: “Sao ông lại trở thành nhà sáng chế được, khi h ọc vấn còn chưa hết trung học?” Phải thừa nhận rằng, đợi một câu trả lời đơn giản một chiều đối với câu h ỏi này là khó. Tuy nhiên, theo chu ẩn mực của những năm 30 thì học hết lớp chín như tôi, trước khi vào làm ở đềpô xe hỏa v{ trước khi nhập ngũ cũng l{ tương đối khá rồi.
Nhưng tôi tin rằng, vấn đề không chỉ ở chỗ anh có trình độ trung cấp hay cao cấp… Vì có phải khi nào t ấm bằng kỹ sư cũng x|c định đúng trình độ kiến thức đ}u. Không, tôi không cho r ằng không cần h ọc t ập, không cần t ự hoàn thiện mình. Nếu không có kiến thức, không có h ọc vấn, không nghiên cứu sâu sắc kinh nghiệm của người đi trước, thì sẽ không trở h{nh người kỹ sư, nh{ thiết kế, người giáo viên, người chỉ huy được. Tuy nhiên, m ọi trình độ học vấn chỉ đem lại lợi ích cho b ản thân và cho T ổ quốc thân yêu, với điều kiện anh phải khẳng định được bản thân mình bằng công việc cụ thể, anh phải đề ra cho mình m ục tiêu l}u d{i cũng như trướ c mắt. Thậm chí tôi còn mu ốn nói thêm r ằng: Ta còn cần ph ải quyết tâm phấn đấu để hoàn th{nh vượt mức những nhiệm vụ mục tiêu đ~ đề ra đó. Chỉ có như thế thì ta mới chinh phục được những đỉnh cao sáng t ạo, m{ trước kia chỉ mới nghĩ đến ta đ~ hoảng sợ. Giờ tôi sẽ l{m gì đ}y? Lòng tự ái chất ch ồng lên nhau – Hãy gạt nó sang một bên – Tôi t ự nh ủ mình – không vì lý do gì m{ đầu h{ng, ta đang đi đúng hướ ng. Giờ c ủa ta đ~ điểm. Lần trở lại những th|ng năm chiến tranh, khi mà tôi ti ếp t ục thử sức mình lần nữa trong việc thiết kế và chế t ạo khẩu cácbin t ự nạp đạn, phải nói ngay rằng, tôi cũng đ~ bị thất bại. Tuy nhiên, m ẫu vũ khí n{y đ~ đem lại cho tôi ni ềm vui của những giải pháp thiết kế bất ngờ, làm nền t ảng cho bước tiến mới, chất lượng hơn của tôi về phía trước. Tôi dám mạnh d ạn mà khẳng định r ằng n ếu không có mẫu c|cbin đ~ ho{n thiệ n c ủa C.G. Ximônốp thì có thể mẫu của tôi có số phận khác rồi. Khi ấy mẫu cácbin của Ximônôp đ~ ho{n thiệ n xong, thì tôi mới bắt tay vào chế t ạo khẩu cácbin của tôi theo thiết kế của loại đạn mới năm 1943. Tôi l{m việ c hết sức hào hứng v{ say mê. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ, để tìm giải pháp t ự động nạp đạn, cố định và nhả băng đạn, tôi bố trí tay gạt nạp lại đạn, tôi đ~ tẩy đi tẩy lại t ờ giấy vẽ oatman đến thủng l ỗ. Ở đ}y nh{ thiết k ế súng t ự động người Mĩ Garand đ~ giúp tôi. Theo kinh nghi ệm của ông, tôi đ~ |p dụng cách nạp đạn vào cửa thu và gạt bỏ kẹp đạn không ra ngo{i, đương nhiên ở dạng cải biến, vào trong thi ết kế bộ nạp đạn t ự động của tôi. Còn tay g ạt nạp đạn l ại tôi bố trí ngược, ở bên trái. Và còn m ột số giải
ph|p độc đ|o kh|c.
Mẫu thử ở trường bắn cho kết quả tương đối t ốt. Lúc ấy thiếu tướng kỹ thuật pháo binh N.N Đubôvitxki của T ổng c ục ph|o binh đến trườ ng b ắn, ông vẫn thường đứng đầu các Hội đồng đặc bi ệt xét duyệt các mẫu vũ khí bộ binh. Ông l{ ngườ i nóng tính, nhưng phải nói l{ tương đố i khách quan và nguyên t ắc. Đ|ng tiếc là, trong m ột số trường hợp tính nóng nảy của ông gây trở ngại cho việc đ|nh gi| c|c mẫ u thử của
nhà thiết kế. Tôi cho r ằng trường hợp ấy đ~ xảy ra khi ông quyết định t ự mình bắn thử khẩu cácbin của tôi.
Chúng tôi đến bia và nạp đạn cẩn thận vào kẹp. Tiếng còi vang lên, tín hi ệu bắt đầu bắn. N.N Đubôvitxki bắ n một, hai, ba loạt… Hết đạn, kẹp đạn rỗng bay vèo ra ngoài. Đ|ng lẽ phải nạp kẹp đạn mới, và bắn tiếp thì ông lại đặt khẩu súng xuống bờ chiến h{o v{ tìm c|i gì đó trên cỏ. Chúng tôi hi ểu là ông tìm kẹp đạn. tôi nói với ông không cần tìm, theo tinh toán k ẹp đạn t ự bắn ra ngoài. Ông phủ tay mạnh: - Tôi biết. Nhưng tôi nghĩ rằng, người lính cũng sẽ l{m như tôi, nghĩ l{ vừ a có một chi tiết n{o đó văng ra v{ nó có thể sẽ mất, trong khi đó phải bắn tiếp!… Ông còn phản ứng mạnh hơn khi nói về tay gạt nạp đạn lại: - Nhà thiết k ế hình dung như muốn để người b ắn nh ắm m ắt. Cái tay gạt c ủa đồng chí khi bắn nó cứ chạy nhảy vướng mắt tôi. Hướng về phía tôi, ông k ết luận dứt khoát: - Này, nhà thi ết kế trẻ Kalasnhicốp! Nếu sau n{y đồng chí vẫn cứ đưa c|c chi tiết trái khoáy này vào m ẫu, thì h~y quên đường đế n chúng tôi đi! Tôi hiểu, t ất nhiên, đó l{ do nóng nả y. Có thể hiểu tâm trạng của ông lúc đó. Ông vừa thông qua m ẫu cácbin của Ximônốp, bỗng nhiên lại có một anh lính mới chen vào với m ẫu súng khác ki ểu, gây chú ý. T ốt hơn hết là cắt b ỏ, không nhận. V{ ông đ~ quyết định như vậy. Lúc ấy, tôi cảm th ấy mình bị xúc phạm. Nhưng từ bài học cay đắng và bất công ấy, tôi đ~ rút ra được những kết lu ận c ần thiết, để sau đó tiến lên một giai đoạn m ới có chất lượng hơn – thiết kế và chế t ạo khẩu tiểu liên AK. Còn một điều đ|ng nhớ nữa là, trong thời gian làm kh ẩu c|cbin tôi được làm quen với Alêcxêi Ivanôvích Xuđaép l{ một trong những nhà thiết k ế vũ khí bộ binh thú vị v{ độc đ|o nhất thời gian ấy. Ông có sức thu hút k ỳ lạ bởi đức tính hồn nhiên, chân thành, khiêm t ốn trong quan hệ với mọi người v{ l{ ngườ i dễ gần. A.I Xuđaép không chỉ hiểu biết kỹ thuật rất uyên bác, mà còn có kh ả năng th}u tóm thực chất vấn đề một cách nhạy bén. Mỗi lần nói chuyện với ông, là m ỗi lần được nghe nói chuyện ngoại khóa về lịch s ử vũ khí. Nhiều lần chúng tôi đ~ trở lại đề tài về các khẩu trung liên th ất bại của tôi, chúng tôi đ~ ph}n tích hết sức kỹ càng chùng.
- Ưu điểm của khẩu trung liên nhẹ của cậu là gì? Là nó có th ể bắn liên thanh và phát một. Bộ phận cò súng mẫu của tôi chỉ bắn liên thanh được. Về mặt này mẫu c ủa cậu vượt trội. – Xuđaép l{ người h ết sức khách quan và trung th ực trong c|ch đ|nh giá công việc ủa mình với một quan điểm phê phán – Và chắc c ậu cũng nhất trí, mẫu trung liên nhẹ của c ậu d ễ điều khiến, làm việc ổn định hơn v{ độ chụm t ốt hơn. Trên phần trước của nắp bảo vệ, tôi bố trí bộ phận hàm – bù trừ nhằm làm giảm va đập của các bộ phận chuyển động ở vị trí sau cùng – t ức là lò xo giảm chấn của khóa nòng. Còn t ại sao mẫu của tôi nhẹ hơn v{ quy trình sả n xuất hợp lý hơn mẫu ППП 41? Phần lớn các chi tiết được s ản xu ất b ằng phương ph|p dập v{ h{n. Chúng tôi đ~ ph|n đấu đạt được mức sử dụng kim loại để sản xuất ít hơn hai lầ n và giảm ba lần thời gian chạy máy công cụ để gia công cơ khí so với mẫu ППП. Cậu h~y tưởng tượng xem, điều đó có ý nghĩa to lớn dường n{o trong điều kiện Lêningrát bị vây hãm. Tính kiên trì là m ột phẩm ch ất n ữa tôi nhận th ấy trong tính cách c ủa Xuđaép. Khi đ~ đặt ra cho mình m ột mục tiêu n{o đó thì ông nhấ t quyết phải thực hiện bằng được. Ông luôn khát khao làm vi ệc, không thích s ự thiếu chuẩn xác, không d ứt khoát, không t ập trung. Cuộc sống ở trường bắn, đôi khi thấy nhẹ h{ng hơn hẳn bởi những trò đùa v{ những câu nói vui ch ẳng làm giận ai, mà có nhi ều c}u đ~ trở thành những câu cửa miệng “nội b ộ”. Nhiều l ần tôi đ~ rơi v{o trường h ợp đùa vui liên quan tới Cachia, vợ tương lai của tôi. Khi đó cô ấ y làm nhân viên vẽ kỹ thuật ở phòng thiết kế của trưởng bắn, một phụ nữ có trình độ cao và rất cẩn thận. Cô hiểu rất nhanh ý đồ của người thiết kế đối với một chi tiết n{o đó qua những bản vẽ ph|c, đôi khi không rõ r{ng của chúng tôi. Đối v ới tôi thì cô l ại càng khó làm vi ệc, vì tôi không được đ{o tạo chuyên môn về thiết kế, hơn nữa khả năng vẽ của tôi lại kém… Thường thì cô không hiểu bản vẽ phác của tôi để mà v ẽ. Còn tôi thì không bi ết giải thích m ột cách thành thạo. Th{nh ra, đôi khi phải làm chi ti ết trước. Cachia l ấy kích thước và lập bản vẽ sau. Những cuộc gặp gỡ thường xuyên này của chúng tôi, l{ đầu đề đ{m tiếu bóng gió của đ|m bạn hữu. Sau khi bi ết chúng tôi yêu nhau, h ọ lại c{ng đùa, g|n ghép thườ ng xuyên hơn. Cứ bước ch}n v{o xưởng, là lại nghe nói: Này, Cachia v ừa đến tìm cậu đấy. Cố ấy không hiểu bản vẽ phác của cậu, nhắn cậu đến để hỏi”. Hiểu rõ sự việc, tôi liền chạy đến phòng Cachia để hỏi. Cô ấy chả hiểu đầu đuôi ra sao cả. Tôi lúng túng đến đỏ cả mặt. Cachia cũng vậ y. Anh em chỉ cần có thế.
… Như vậy là khẩu cácbin của tôi không qua được k ỳ thử. Nhưng mọi ý tưởng t ốt định thể hiện trong mẫu này tôi chuyển sang mẫu mới m{ lúc đó đ~ có một số nhà thiết kế khác bắt tay vào thiết kế. Tôi muốn nói về khẩu tiểu liên chế t ạo cho loại đạn mới năm 1943. Người đi đầu thiết kế mẫu này lại l{ Alêcxêi Ivanôvich Xuđaép.
… Năm 1945 mẫu c ủa ông đ~ được s ản xu ất hàng loạt. M ẫu đ~ được th ử ở trường bắn và ở đơn vị qu}n đội. Một trong những nhược điểm chủ yếu của nó là kh ối lượng lớn, đòi hỏi giảm nhẹ kết cấu. Ông tiếp t ục kiên trì c ải tiến mẫu. Vào th ời kỳ đó, chúng tôi gặp nhau rất ít. Có lẽ trước hết là do ảnh hưởng của ông m{ tôi đ~ giam gia vào một cuộc cạnh tranh thiết kế loại tiểu liên dùng đạ n mới, cỡ nhỏ, nhỏ hơn đạn súng trường, lớn hơn đạn súng lục. Khi tôi chỉ mới bắt dầu công việc thì Xuđaép đang tiếp t ục hoàn thiện mẫu của ông. Tôi cho rằng lẽ ra ông đ~ đạt được những thành công tuyệt v ời và bổ sung thêm vào truyền thống vẻ vang của ng{nh vũ khí bộ binh nước ta, nếu ông không đột ngột t ừ trần năm 1946. Đối với c| nh}n tôi, đ}y l{ mộ t sự mất mát không thể bù đắp được. Sự nghiệp sáng chế của ông chỉ gói gọn trong khoảng bốn năm năm gì đó. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi này, ông đ~ đạt t ới những đỉnh cao sáng t ạo vũ khí, m{ những nhà thiết kế khác cả đời cũng không mơ tới được. Số phận của nhà thiết kế vũ khí thật lạ lùng thay. Khi ông ch ết đi, tiễn biệt ông là những loạt súng mà ông không thể ng ờ t ới được, không một l ời điếu văn long trọng nào, không một dòng nhạc nào nhắc nhở đến những kỷ niệm về ông, chỉ có những lời than khóc đau đớn và tiếng hét kinh hoàng. Sau khi ông mất v{i năm tôi đ~ viế t những c}u thơ n{y:
Sương mù bao bọc đời ông Từ trong năm th|ng chiến trường xưa k ia Vụt qua như đ|m sao xa Dấu vết để lại mãi là c ủa ông. Và cuộc thi được công bố là sẽ tiến hành bí mật, nghĩa l{m mọi tài liệu thiết kế trình Hội đồng được đặt bí danh, giấu tên thật, có một phong bì riêng trong đó viế t rõ tên thật c ủa nhà thiết k ế n{o đó. Phong bì này ch ỉ được bó ra khi đ~ xét xong c|c bản thiết kế và công bố vị trí kết quả của chúng. Làm th ế để việc xét duyệt được kh|ch quan hơn v{ để sức nặng “của những người nổi tiếng” không g}y |p lực lên quyết định của các thành viên trong H ội đồng. Mọi người tham gia trên cơ sở bình đẳng! Tôi thật không dễ dàng gì khi quyết định tham gia cu ộc thi n{y. Theo điề u kiện cuộc thi, phải đưa trình không chỉ các bản v ẽ t ổng quát mà cả các bản v ẽ chi tiết các cụm chính, các bản tinh to|n độ bền của c ụm khóa nòng, x|c định t ốc độ bắn và một loạt c|c tính năng kh|c nữ a. Nếu thiếu một trong các tài liệu n{o đó, Hội đồ ng sẽ không nhận bản thiết kế. Bây giờ nhớ lại thời ấy, tôi khó có th ể hình dung được t ại
sao mình lại dám bắt tay vào m ột việc lớn như thế, trong khi không được đ{o tạo chuyên môn gì cả?… Nhưng tuổi tr ẻ v{ lòng hăng say được b ồi b ổ t ừ những cuộc thi trước, đ~ hướng tôi đế n cuộc cạnh tranh này.
Tôi đ~ hạ quyết tâm. Bắt đầu t ừ thiết kế sơ đồ… Tôi vẽ hang trăm ph|c thảo qua t ừng chi tiết. Tôi xé b ỏ những gì hôm qua còn được coi là t ốt nhất, nhưng hôm nay không đạt yêu cầu. Tôi tham kh ảo ý kiến các chuyên gia. Và c ứ như thế, ngày nọ kế tiếp ng{y kia… Sau những tuần lao động căng thẳng, trên bảng vẽ đ~ hình th{nh nhữ ng nét chính của kh ẩu ti ểu liên tương lai. Những chi tiết chủ y ếu c ủa nó đ~ đượ c thiết k ế chi tiết. Lúc này cấp trên đ~ cho một số nhân viên vẽ kỹ thuật và kỹ thu ật viên giúp tôi. Th ế là l ại có một t ập th ể sáng t ạo nh ỏ. T ất c ả chúng tôi cháy b ỏng khát vọng chiến th ắng c|c nh{ vũ khí danh tiế ng, để chứng minh rằng tuổi trẻ cũng l{ một thế mạnh trong cuộc chạy đua. Chúng tôi l{m việ c không tiếc thời gian của bản thân, ở lại làm cho đến t ận nửa đêm bên bản vẽ. Lần thiết kế khẩu c|cbin trước, ổ đạn bảy viên bị loại, t ạo nhiều thuận l ợi cho tôi thiết kế mẫu súng mới này. Chủ yếu l{, như b}y giờ người ta thường nói, cụm khóa rãnh nòng có nhiều ưu việt, khi thử cho kết quả t ốt ai cũng thấy rõ ngo{i trườ ng bắn, đ~ được thay đổi m ột chút để dùng cho mẫu súng mới. Chính điều n{y đ~ g}y đượ c sự chú ý c ủa cá c sĩ quan trườ ng b ắn đối v ới thiết kế m ới c ủa tôi. Mọi người đều tìm cách khuyến khích, động viên tôi kiên trì ti ếp t ục thiết kế m ẫu mới. Họ đ~ góp ý, phê phán những giải pháp kỹ thuật của tôi. Khi đụng đến vấn đề lập các bản tính toán theo yêu cầu cuộc thi, thì trung t| Borix Lêôpônđôvích Kanel đ~ giúp tôi. Ông đ~ hoàn thành ph ần thiết kế quan trọng này giúp tôi v ới m ột trình độ nghề nghiệp cao v{ đặc biệt cẩn thận. Cho đến nay tôi vẫn mang ơn ông một cách chân thành và sâu sắc vì sự giúp đỡ vào thời gian hết sức quan trọng đối với tôi. Ngày tháng trôi qua, ch ẳng bao l}u đ~ gần đến ngày nộp thiết kế. Suốt thời gian ấy, một nỗi nghi ngờ cứ xo|y trong đầu tôi: Liệu tôi có thể thi được không? Tôi có k ịp không?
Nhưng rồi, cuối cùng, m ọi thứ cũng đ~ sẵn sàng. Bản vẽ đ~ ho{n th{nh, c|c bảng tính to|n đ~ n xong v{ to{n bộ các phụ chú cần thiết cho bản thiết kế cũng đ~ xong xuôi. Giờ chỉ còn chọn bí danh để ký vào t ất cả các tài li ệu. Trước đó tôi cứ dềnh dang, mê tín, ngài ng ại nghĩ đến việc này. Mọi người bắt đầu cùng nghĩ bí danh. Có nhiều đề nghị khác nhau: có c ả đề nghị nghiêm túc, cũng có đề nghị g}y cười, cuối cùng một ai đó xuất hiện ý tưởng, lấy các vần đầu của tên và ph ụ danh tác gi ả ghép lại s ẽ th{nh bí danh. Đó l{ “KIKHTIM”. Mọi người đề u tán thành. Còn tôi, thì b ối r ối. Bởi vì chưa có ai gọi tôi, m ột trung sĩ trẻ, theo tên và ph ụ danh như vậy. Thế m{ đ}y lại l{ “MIKHTIM”! Tôi tỏ ra không t|n th{nh. Nhưng bạn bè đề u thuyết phục, và tôi
đ|nh phải nghe họ. Thế là, trên gói tài li ệu thiết kế gửi đi M|txcơva, trên đề địa chỉ nơi nhận, dưới đị a chỉ người gửi với chữ nét đậm “MIKHTIM”. Bản thiết kế gửi đi rồi, bắt đầu thời gian chờ đợi sốt ruột. Chưa bao giờ tôi thấy kim đồng h ồ l ại chuyển động chậm chạp như những ng{y đó. Tấ t cả chúng tôi, sống trong một tâm trạng căng thẳng khủng khiếp. Quyết định có thể đến bất k ỳ vào phút nào. Chúng tôi giật mình thon thót mỗi lần nghe tiếng gõ cửa… Ngày hôm ấy tôi còn nhớ thật rõ ràng. Cánh c ửa hé mở, một giọng phụ nữ nghe thật quen thuộc hỏi khẽ: “V{o được không ạ?” Cachia vẻ m ặt tươi rói bước vào phòng. Cô làm ra v ẻ nghiêm chìa bày tay v ề phía tôi: “Thay mặt phòng xin chúc m ừng đồng chí, mẫu đ~ được duyệt”. Tôi thở dài nặng nề, cay đắng và quay mặt đi: ừ nhỉ, những người bạn của chúng tôi, họ chả ngờ nghệch chút n{o!… Lúc đầu họ tìm c|ch đưa tôi đến gặp cô ấy liên t ục – cứ như để t ỏ tình… Còn b}y giờ thì, họ lại xúi cô ấy đến g ặp tôi! Họ khéo tìm cách đùa thật! Cuối cùng cả t ỉnh sẽ biết chắc… Cachia bối rối, nhún vai, bước ra ngo{i. Tôi đứ ng dậy, mắt nhìn ra cửa sổ mà chẳng thấy gì hết. Trong lòng tôi sao ch ứa chất nhiều điều buồn t ủi đến thế!… M{ sao ông trời lại run rủi cho tôi g ặp những người bạn như thế?
Đúng lúc ấy thì nghe thấy tiếng ch}n đi rầm rập, tiếng người nói râm ran, ph ấn khích: “Mikhtim? Ở đ}u thế?” “Nó ở đ}y m{ – nó đang muốn ôm chặt chúc mừng đ}y m{!” “Không, Mikhtim giờ không quanh quẩn ở đ}y được!” “Chạy ngay lên tham mưu, sau đó đi luôn ra cử a hàng thực phẩm!” Trên ban tham mưu chính thức thông báo cho tôi biết bản thiết kế có ký hiệu “Mikhtim” đ~ thắng lợi trong cuộc thi, v{ đề nghị tác giả chế t ạo mẫu để tiếp t ục tham gia vào cuôc thi chung k ết cùng với các tác giả kh|c… V{ cũng được giải thích luôn, sở dĩ thông b|o chúc mừng bị chậm vì mãi không tìm th ấy người có cái tên l ạ lùng Mikhtim… l{ ai. Cậu chuyện buồn cười này, t ất nhiên, cả trường bắn đều biết và phải đến mấy ngày sau vẫn còn nghe nói: “Đ~ biế t chuyện Mikhtim chưa?” “N{y, Mikhtim kh| nhỉ?” “Kia kìa, Mikhtim, đang đi kia kìa!… Mi -kh-ti-im!” Tiếng vang hạnh phúc của năm bốn s|u xa xưa.
CAVƠRỐP – CŨNG LÀ “TULA” Vào một ng{y th|ng năm năm bốn lăm, chiến tranh kết thúc. Ng{y m{ chúng ta đ~ chờ đợi biết bao nhiêu! Chỉ còn lại một mình nước Nh ật làm sao chống lại được lực lượng quân sự của các nước Đồng minh, và mọi chuyện ở phương Đông, cũng đến h ồi k ết thúc. Bỗng nhiên đ{i ph|t thanh thông b|o, lần đầ u tiên trong lịch sử lo{i người, hai thành ph ố Hirôsima v{ Nacazaki đ~ bị ném bom nguyên t ử… cơn gió ban mai đ~ kéo “cuộc chiến tranh lạnh” trở lại.
Đôi lúc tôi nghĩ: Thế l{ công toi, như c| đ}m v{o băng, biết bao sức lực b ỏ ra, vội vội vàng vàng, m ột c ố gắng trong chốc lát hóa thành vô ích, ch ả ai cần t ới c ả. Có thể, điều n{y cũng tốt? Gi| như ngờ i ta giao cho mình thi ết kế một chiếc máy liên hợp gặt đập… Hay l{ chiếc máy kéo. Nhưng, hóa ra, đ}y chỉ là sự kh ởi đầu c ủa những căng thẳng kéo theo. Không ph ải vô cớ m{ người ta gọi tình hình vũ trang trong thờ i k ỳ sau chiến tranh là ch ạy đua. V{ đối với tôi, khái ni ệm đó có ý nghĩa trự c tiếp nhất. Các nhà sáng chế lại vội vàng thực hiện thiết kế và bắt tay vào sản xuất. Các yêu cầu về chất lượng mẫu trở nên khắt khe hơn nhiều. Tôi chuẩn b ị r ời trường b ắn để đi Cavơrốp thuộc t ỉnh Vlađimir. Lý do l{ vì xưở ng trường bắn không đảm bảo điều ki ện k ỹ thuật để sản xu ất súng tiểu liên. Ở đó đ~ có một số nhà thiết kế đang thực hiện các mẫu thiết kế của mình. Trung tá k ỹ sư Vlađimir Xergêivích Đêikin đ~ giao quyết đị nh c ủa T ổng c ục pháo binh c ử tôi về nhà m|y Gavơrốp, nơi V.A. Điôchiarép mộ t trong những nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng nhất lúc đó đang l{m việc.
Trước khi rời t rường bắn, tôi nhận được thư nh{, từ làng Curia thân yêu c ủa tôi. Thư do chị Anna Timôphêépna vi ết kể lại những tin mới của làng quê. Theo l ệ thường, trước hết l{ c|c tin vui. Đầu tiên là tin c ậu em út c ủa tôi Vaxili còn s ống và đ~ trở về quê hương. Nhưng t ất cả niềm vui của gia đình chúng tôi chỉ có thế. Đọc tiếp mỗi dòng chữ sau là m ột dòng nước mắt chảy d{i. Nh{ tôi đ~ nhận được giấy báo t ử c ủa hai anh c ả Ivan v{ Anđrêi, rồ i Igor chồng chị Anna cũng không trở v ề, để lại cho chị tôi ba đứa trẻ mồ côi cha. Thiếu vắng họ, biết xoay sở l{m sao… Bức thư thức d ậy trong lòng tôi nhiều điều. Tôi r ất muốn gặp h ọ hàng thân thích. Trái tim giục giã tôi tr ở về Altai, thế nhưng không thể nào dừng công việc một vài tuần được.
Tôi chưa đến Cavơrốp bao giờ, nhưng biế t chắc rằng V.A Điôchiarép, một trong những nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng nhất đang l{m việc ở đó. V{ cả P.M Gơrunốp người Cavơrốp cũng ở đấy. Chính tôi trước đ}y không l}u lắm, đ~ cả i tiến khẩu trung liên của ông. Vì th ế tôi cảm thấy Cavơrốp có c|i gì đ~ th}n thuộc với tôi, và tôi s ẽ sung sướng khi được đến đó. Nhưng đồng thời tôi lại ngài m ột điều là, ở đó mọi người đ~ l{m việc quen với những người có uy tín cao, v{ qu}n h{m cũng cao. Điôchiarép qu}n h{m cấp tướ ng, và những người kh|c qu}n h{m đều cao hơn tôi… Chả hiểu ở đó người ta có ti ếp nhận một anh thanh niên l ạ hoắc – ch{ng trung sĩ – thiết kế không có tiếng tăm như tôi không? Vì thự c chất l{ tôi đi thi thố với một vị tướng – nh{ vũ khí nổi tiếng. Thi trong căn phòng th}n thuộc của ông, trong ngôi nhà của ông! Nhưng lệnh vẫn là lệnh. Tôi thật hồi hộp khi gần đến thành phố của c|c nh{ vũ khí lừng danh. Sự hiện diện bên cạnh tôi của đại úy Đêikin, ngườ i cùng tuổi với tôi, đại diện của Tổng cục pháo binh, đ~ l{m tôi yên lòng. Mỗ i dịp đến chỗ m ới, mà có hai n gười cùng đi thì không có gì đ|ng ngại. Sau này, d ần dần với năm th|ng, Đêikin không chỉ l{ người trợ lý không thể thay thế được m{ còn l{ người b ạn l ớn c ủa tôi. Gia đình chúng tôi ở g ần nhau và con cái chúng tôi l ớn lên cùng nhau. Tình b ạn ấy kéo dài mãi cho đến khi ông mất. Tôi nhớ mãi với lòng biết ơn ông, đ~ giả i quyết mọi việc về t ổ chức thật nhanh chóng, ngay sau khi đến. Đó l{ tìm người hiểu biết công việc thiết kế, và những công nhân có kinh nghiệm để giúp việc cho tôi. Thi ếu những người đó, thì nh{ thiết kế chính, dù có là thánh sống, cũng không thể nào hoàn thiện được sản phẩm của mình một cách hoàn hảo. Tôi cứ lo lo trong lòng: Mình s ẽ làm việc thế nào ngay bên c ạnh chính là
Điôchiarép?
Cuối cùng tôi mới biết rằng ông làm việc ở phòng khác, phòng thiết kế của riêng ông. Trong tôi nảy sinh một tình cảm đan xen, vừa thấy an lòng nhưng đồ ng thời l ại buồn vì nỗi… Tôi rất muốn, dù chỉ ghé mắt nhìn một lát thôi, xem nhà thi ết kế trứ danh làm việc!
Nh{ m|y đ~ giới thiệu cho tôi nhà thi ết kế trẻ Alêcxanđr Zaisép, chuyên gia hoàn thiện tài liệu k ỹ thu ật và chế t ạo m ẫu. Chúng tôi đ~ nhanh chóng hiể u bi ết lẫn nhau. Có l ẽ tu ổi tr ẻ và lòng say mê công vi ệc đ~ xích chúng tôi lại g ần nhau. Chúng tôi s ẵn sàng ở lại nhà máy su ốt ng{y đêm, đặc biệt khi chế t ạo những mẫu đầu tiên. Luôn luôn có những chi tiết và cả cụm chi tiết nói chung phải thay đổi. Cuối cùng thì chúng tôi cũng được dành riêng th ời gian để b ắn ch ỉnh trong phòng bắn thử, khi các nhà thi ết kế và chỉnh súng của phòng thiết kế Điôchiarép đi khỏi. Thế là chúng tôi không g ặp nhau! M{ cũng lạ thật, chúng tôi về Cavơrốp đ~ dược gần một năm m{ tôi chưa mộ t lần được gặp nhà thiết kế danh tiếng. Chúng tôi, m ỗi
người hoàn thiện mẫu riêng c ủa mình, hình như bị ngăn c|ch bởi một hàng rào vô hình n{o đó… Tôi xuống nh{ ăn muộn và bỗng nhiên nhìn th ấy một cậu bé đứng lên hàng rào đang vẫy tay gọi b ạn: “N{y, lại đ}y nhanh lên! Lạ i mà xem, có chuy ện l ạ l ắm”. Cậu ta nói nhỏ nhưng vẫn đủ nghe thấy. Tôi vô tình cũng lao đế n chỗ t ấm ván hàng rào b ị long ra, nhưng chỉ kịp nhìn thấy th}n m{u đen củ a chiếc xe con dài lấm bùn đất, biến mất sau dãy nhà c ủa nhà máy. Tôi hi ểu c ả, nhưng từ đôi môi khô khốc vẫn bật ra câu hỏi: – Ai thế? Hai cậu bé gầy gò, người rất thấp, đứng chưa với t ới bàn dao máy tiện, đó l{ c|c cháu thiếu nhi chăm l{m, giúp đỡ thêm cho nh{ m|y, đất nước… Chúng nhìn tôi rấ t ngạc nhiên: - Chính Điôchiarép, chứ còn ai!… Đi xe “ZIX” đấ y! Chiếc xe này do chính Xtalin t ặng Điôchiarép. Người ta kể lại câu chuy ện huyền thoại v ề chiếc xe n{y như sau: Thợ m ộc nh{ m|y đ~ trổ m ột cửa riêng ở b ức tường gỗ của nh{ văn hóa nh{ m|y, để cho nhà thi ết kế lừng danh mặc quân phục cấp tướng, ngực đầy hu}n chương ngồi trên xe “Xtalin” tiế n thẳng vào sân khấu. Bước t ừ chiếc xe “ZIX” đen ra, ông đứ ng thẳng người, giơ tay lên v{nh mũ lưỡ i trai, chào công nhân, kỹ sư ngồi dưới. Người ta nói rằng, sau đó phải xem lại nóc xe: có lẽ ph ải tr ổ ở chỗ n{o đó, lấy chỗ đứng?… Hộ trường vang dậy tiếng vỗ tay hò reo vui sướng. Chuyện này có th ật hay không, ch ẳng quan trọng gì. Thế nhưng, riêng cốt lõi của câu chuyện được đồn đại trong nh}n d}n đó, luôn nhắ c nhở tôi với một sự lo lắng, buồn r ầu không hiểu vì sao… Có lẽ vì ngày nay chúng ta quá hi ếm “long trọng ch{o” những người có đôi b{n tay chai sạ n, t ấm lòng đôn hậu, đầ u óc sáng su ốt mà những thành tích c ủa ta mang ơn họ? Giờ thì đ~ đến lúc phải n ộp đơn đăng ký thử so sánh mẫu. chúng tôi làm vi ệc thật tuyệt vời, hết sức mình. Nhưng vẫn phải hoàn thiện thêm những chi tiết nhỏ, còn những nguyên t ắc chủ yếu không thay đổi. Đại diện người đặt hàng chính là Tổng cục ph|o binh đ~ đến Cavơrốp để kiểm tra xem thiết kế có được thực hiện đầy đủ hay không v{o có đạt yêu cầu của cuộc thi không? Mà nội dung kiểm tra chính l{ đả m bảo tiêu chu ẩn quy định về độ chụm, về trọng lượng, kích thước, độ tin cậy trong hoạt động, độ bền của chi tiết và cấu t ạo đơn giản của mẫu tiểu liên.
Đúng v{o dịp này thì x ẩy ra một chuyện rõ thật xấu hổ. Câu chuyện thế n{y. Đến phần thử cơ cấu nòng thì xạ thủ bắn thử vẫn chỉ có một người đó. Anh ta bắ n quen tay mãi rồi. Kết qu ả độ ch ụm đều vượt t ất cả các tiêu chu ẩn quy định. Chúng tôi th ật hài lòng và cho r ằng đ}y l{ một ưu điể m lớn của mẫu. Tôi báo cáo v ới đại diện của
Tổng cục. Là những chuyên gia có trình độ , họ biết rằng để đạt được kết quả như vậy không phải dễ, nhưng kết quả đưa rất rất x|c đ|ng. Chúng tôi tin v{o kết quả đạt được nên rất vô tư để người x ạ thủ ra về, trước khi đại di ện T ổng c ục đến ki ểm tra. Thật nhầm to!
Đại diện Tổng cục vào kiểm tra. Và họ phát hiện ra, các chỉ tiêu về độ chụm của chúng tôi không đượ c thừa nhận. Coi như chưa bao giờ có! Các bạn có hiểu tâm trạng của tôi lúc đó không? Không biết để đ}u cho hết nỗi bực mình, xấu hổ, chán chường… Hóa ra c|c chỉ tiêu xuất sắc về độ chụm không phải là mẫu của chúng tôi mà là của xạ thủ đối thủ! Suốt đời tôi vẫn nhớ bài học này và không bao gi ờ vội tin vào kết quả đ|nh gi| tốt sau khi th ử. Thế là chúng tôi cùng Xasa Zaisép và các công nhân hoàn thi ện nhanh chóng khắc phục thiếu sót, đưa độ chụm của mẫu đạt mức quy định của cuộc thi.
Chúng tôi l{ đội đầu tiên đến trườ ng bắn, nơi sinh ra bản thiết kế khẩu tiểu liên của tôi. Giờ đ}y bản thiết kế đó đ~ được thể hi ện b ằng s ắt thép và trở l ại dưới d ạng mẫu thành phẩm. Trở về những chốn quen thuộc của ngoại ô M|txcơva. Trở về với những người gần gũi, cùng công t|c trong những năm c hiến tranh v{ đặc biệt được gặp lại Cachia mong nhớ suốt gần một năm trời.
Nhưng trong lòng nặng trĩu lo }u, thấp thỏm chờ đợi, sợ hãi cái k ết cục buồn mà tôi linh cảm thấy. Tôi ch ỉ mong cho th ời điểm kết thúc cuộc thử nhanh đến. n ếu k ết quả xấu, h~y đến n hanh lên! Không có c|ch gì để tránh những ý nghĩ lo lắng: Chúng tôi đ~ tính to|n kỹ chưa, đ~ l{m hết chưa, có bỏ sót cái gì nghiêm tr ọng không? Từ những suy ngẫm này bật ra c|c ý tưởng hoàn thiện mới. Tôi r ất muốn thực hiên ngay ở đ}y c|i ý tưởng đó, chứ không phải chịu khoanh tay, ch ờ đợi người khác làm cho thiết kế của mình. Số phận tôi long đông, cho nên ng{y c{ng phải có th|i độ phê phán khắt khe hơn đối với đứa con chưa phải hoàn thiện của mình. Nhưng v{o những thời điểm quan trọng như thế này, thì sự t ự tin vào lẽ phải của mình rất cần thiết. Dần dần các nhà thi ết kế theo nhau đến trườ ng bắn. V.A Điôchiarép xuống xe đi thẳng không nhìn hai bên, đang suy nghĩ điều gì đó. Nh{ thiế t kế nổi tiếng G.X Spagin tôi nhận ra ngay khi vừa m ới g ặp ông trên con đườ ng nhỏ qua khu ph ố nh ỏ trường bắn. Tôi nhớ rõ mặt ông vì t ừng xem ảnh đăng trên b|o. Còn khi gặp X.G Ximôn ốp, chúng tôi chào h ỏi nhau như những ngườ i quen biết cũ từ lâu. Trong tôi lại thoáng hiện một ý nghĩ cay độc: “Mình cạ nh tranh với ai nhỉ? Thôi, liệu m{ gói ghém đồ đạc, thế nào chả b ị b ật s ới đầu tiên!” Thế nhưng cùng lúc đó, từ trong sâu thẳm ký ức tuổi thơ bỗng hiện lên một cảnh tượng đến cứu giúp tôi: “Ch}n
trần, người bẩn thỉu, chiếc |o đủ che ngực không hề xấu hổ, bởi công việc chẳng ra gì! Chính đó l{ con đường vẻ vang của nhiều người”.
“V}ng, quả thật thế! – Tôi khẳng định lại cho chính mình – Không, trong thực t ế chẳng có thần thánh nào xếp sẵn cỗ cho anh cả!”… Vào những ngày chờ đợi thật nặng nề ấy, tôi thường nhớ lại thời gian thiết kế khẩu tiểu liên. Lúc ấy khẩu cácbin của tôi đang ở giai đoạn thử. Tôi cứ như cùng lúc ở hai nơi. Th{nh ra đôi khi xả y ra những chuyện t ức cười. Có lúc đang ngồi vẽ, nghe thấy tiếng nố tôi nhận ra tiếng khẩu súng cácbin của mình. Tôi bi ết phải có 10 phát đạn bắn liên t ục. Tôi không đếm t ừng phát một. Nhưng bỗng nhiên tôi có cảm giác là bắn chưa đủ 10 viên. Nghĩa l{ khẩ u cácbin có v ấn đề. Tôi ch ạy lại điện thoại để hỏi. Chỗ bắn thử trả lời: “Có con nai chạy ra đường bắn, nên phải dừng lại. Chúng mình đang đứng chờ… và tranh luận với nhau. Lúc nào c ậu sẽ gọi lại nữa?”.
Thường thì chúng tôi không có m ặt khi thử, để không can d ự vào quá trình b ắn, hay như người ta thường nói, không được… nhúng tay v{o… Đôi khi vì số t ruột, không kiềm chế nổi, lén đến đứng ngoài xa, nhìn vào, mà x ạ thủ đ~ khó chịu rồi. Lúc ấy đ{nh phải tìm một xó xỉnh n{o đó, xa xa hướ ng bắn, nhưng dù ở đ}u chăng nữa thì anh v ẫn c ứ thấy thót tim mỗi lần khẩu súng của anh “nhả kim khâu chỉ”. V{ cái mà anh sợ nhất là: Bỗng nhiên “giai điệu” của anh t ắt lịm. Vì bắn ngắt quãng là chậm trễ mất rồi! Thế là không chỉ thử súng mà thử cả người nữa. “Giai điệu” dừ ng lại nửa chừng thế là l ại chạy đến điện thoại:“Có việc gì thế?” “Có gì đ}u, chúng mình c~i nhau – Bên đầu dây trả lời – Thử xem cậu chạy hết bao nhiêu thời gian thi đến m|y điệ n thoại!…”. Ôi mẹ ơi! Tiếng súng lại dừng nổ. Tôi lại vò đầu bứt tay chạy đến hỏi: “Lại thế nào hả?” – “Chúng mình kiểm tra thính giác và nhân th ể cả thần kinh cậu luôn m{… Kh| đấy! Mẫu cậu t ốt lắm!…”- “Thật không?!” – “Sao lại không thật, giờ thì không đùa!” Thế là hết giận họ, và thần kinh cũng hết căng thẳng… có lẽ không thể kh|c được! Tôi muốn nói thêm rằng, sau ngày b ắn đầu tiên, thì nh ững người tiến hành thử nghiệm trên trường b ắn, đ~ có thể nói theo th ứ t ự nh ững m ẫu nào sẽ b ị lo ại. Những dự đo|n của h ọ thường l{ đúng. V{ đố i v ới tôi, thông tin t ừ họ th ật là tuyệt vời: M ẫu của tôi không n ằm trong số bị loại. Trong thời gian tiến hành thử mẫu, mỗi nhà thiết kế xử sự mỗi người một kiểu khác nhau. Tôi r ất thích thú quan s|t Điôchia rép. Mọi dáng vẻ của ông chứng minh cho điều ông không quan t}m đế n bắn thử, vì ông hoàn toàn n ắm vững những ý
tưởng mới. Ông thường ngồi cách xa mọi người, t ập trung tư tưởng vẽ c|i gì đó trên cát bằng cái que ho ặc cành cây. Tuy nhiên, tôi cho r ằng s ự bình tâm c ủa nhà thiết k ế đ|ng kính chỉ là giả t ạo. Đơn giản là, ông muốn đối diện với chính mình. G.X Spagin chăm chú ph}n tích những ghi chép về t ốc độ chuyển động của bộ phận t ự động nạp đạn ngay sau khi mẫu của ông băn những viên đầu tiên, ông so s|nh, đố i chiếu và trầm ng}m suy nghĩ. H.Bulkin thì ganh t ị theo sát t ừng bước những người bắn thử, xét nét kiểm tra súng xem có được giữ sạch không, và nhất thiết phải t ự mình xem xét ki ểm tra kết quả bắn trên bia. Có l ẽ ông nghĩ l{ những người cạnh tranh có th ể ngầm hại ông. Còn có một dạng nữa: Những người giấu sự hồi hộp lo lắng của mình trong các câu chuyện ồn ào với nhau. Xung quanh h ọ t ập trung đông đúc những người ưa thích chuyện ti ếu lâm, những tay kể chuyện có hạng, kẻ đủ các loại chuyện phiêu lưu mạ o hiểm mới mẻ, chưa định hình, phần vì tôn trọng nội quy trường bắn v{ hơn nữa, vốn tôi có tính ch ịu đựng nên thường kiềm chế mọi sự lo lắng hồi hộp hướng chúng về phía kh|c, xa hơn. Thế là tôi trở thành mục tiêu cho nh ững tay “thích đùa” trên. Họ cho rằng tôi l{ người thích nghe chuy ện, chịu đựng giỏi và sẵn sàng hào hứng lôi kéo tôi v{o nhóm “hay chuyện” n{y. Thậ t rõ khổ vì điều này! Thực ra thì, tôi ch ỉ thường xuyên t ập trung chú ý vào bãi th ử. Tôi nghe th ấy hết, nhìn thấy hết, không có gì l ọt khỏi m ắt tôi… Còn khi nào c ần thiết tôi mới g ật đầu hoặc m ỉm cười, thế đ~ l{ tra tấn rồi, mà chỉ có thế thì mới quân tâm t ới c|i chính được. Có m ột điều thú vị là: Tôi v ốn l{ người h{i hước, rất ưa chuộng những câu nói sắc sảo và tôi v ẫn thường dùng chúng, nhưng tôi luôn luôn cho r ằng c}u nói đùa phải có tác dụng n}ng đỡ, sưởi ấm tâm hồn, hy vọng v{ tăng cường sức lực cho con người. Ngay cả hi ện nay tôi vẫn tâm niệm r ằng h{i hước l{ để n ạp thêm năng lượng, chứ không phải như những người thích đùa chuyên nghiệ p của chúng ta, họ đùa cợt khinh miệt, lăng mạ, đầu độ c biết bao nhiều người…
Khi đ~ trưởng th{nh tôi được đọc một câu của nhà bác học vĩ đại người Thụy Điển Ninx Bor: “Có những sự vi ệc nghiêm túc thái quá thì ta l ại có thể nói đùa về chúng”. Câu nói này là s ự thừa nhận vai trò to lớn của nụ cười thường ngày của chúng ta, nếu không thế thì mắt ta lúc n{o cũng bị chìm trong m ột màu ảm đạm à? Bây giờ đôi lúc tôi nghĩ, ranh giới thông minh nhất giữa cái thiện và cái ác nằm trong c}u nói đùa. C}u nói đùa thông minh cầ n phải để phục vụ Chúa Tr ời, nhưng ta lại dành hẳn nó cho quỷ dữ. Thực ra thì, tham gia vào nhóm nh ững người thích đùa có có c|i lợi lớn: Tạo cho ta thói quen nghe những kẻ ba hoa nói m{ không để ý đến ý nghĩa của điều họ nói ra. Vì thế tôi chẳng nhớ những chuyện tiếu lâm và không th ể t ỏ ra xuất sắc trong nhóm
được. Trong khi đó thường xuyên vẫn xuất hi ện trong đầu tôi những c}u đùa, những lời nói sắc sảo đúng lúc, v{ cần thiết nhất. Có lẽ tôi phải xin lỗi b ạn đọc vì lời b ộc b ạch lan man n{y. Lúc đó phả i nghe những lời đùa cợt, h{i hước thiếu xây dựng, tôi như bị tra t ấn thử thách nặng n ề, song song với cuộc thử chính… Vâng, cuộc thử chính vẫn đang tiếp t ục.
Người đầu hàng và rời trường bắn đầu tiên là Spagin. Sau khi gi ải mã những ghi chép đầu tiên về vận t ốc chuyển động của hộp t ự động nạp đạn, đối chiếu với số liệu tiêu chuẩn, ông buồn bã tuyên b ố rằng, ông rời trường bắn. Sau này, ông t ừ chối hoàn toàn không tiếp t ục tham gia vào cu ộc thi nào nữa. Mẫu c ủa Điôchiarép khi bắ n liên t ục b ị nóng quá không ch ịu n ổi, thỉnh thoảng lại b ị hóc. Thấy m ẫu c ủa mình đạt kết quả kém, ông chuẩn bị trở về Cavơrốp. Các kết quả thử cuối cùng được phân tích và xem xét ở một Hội đồng có uy tín, gao gồm đại diện của người đặt hàng là B ộ dân biểu quốc phòng, và các c ộng tác viên chủ chốt của Bộ dân ủy vũ trang. Ba mẫu được khắc phục nhược điểm để thử vòng sau, trong đó có mẫu của tôi. Tôi chứa chan hạnh phúc, cho dù đến lúc chiến thắng hoàn toàn vẫn còn xa lắm. Bởi vì, chỉ có một trong ba mẫu gi{nh được quyền sống. V{ để đạt được k ết quả t ốt nhất trong cuộc thi đua n{y, thì không chỉ đơn giản là hoàn thiện tiếp mẫu, mà còn phải t ạo ra bước nhảy v ọt về ch ất lượng c ủa m ẫu. C ần tiếp t ục đơn giản hóa các chi tiết, giảm trọng lượng mẫu, nhưng c|i dó lạ i làm ảnh hưởng xấu đến độ chụm, đ}y chính là một thiếu sót lớn của mẫu. Rồi lại yêu cầu phải khắc phục khả năng bắn chậm. Tóm lại, điểm y ếu c ủa m ẫu cũng kha kh|. Trong sổ tay tôi lại xu ất hi ện những ghi chép, các b ản tính toán, các b ản vẽ phác nhằm hoàn thiện mẫu. Khi về đến nh{ m|y Cavơrốp, thì đầu tiên tôi đượ c chứng kiến không khí tưng bừng đặc biệt, bao trùm khắp nơi trong nh{ m|y. Công nh}n viên nh{ m|y vẫ n còn đang sống trong tâm trạng phấn khởi, do nh{ m|y đượ c trao t ặng ph}n thưởng cao quý nhất của Tổ quốc – Hu}n chương Lênin. Tậ p thể nh{ m|y đ~ xứng đ|ng với phần thưởng đó vì đ~ ho{n th{nh thắng lợi nhiệm vụ cung cấp vũ khí cho không qu}n v{ bộ binh, mà ủy ban quốc phòng nh{ m|y đ~ giao. Trưởng phòng thiết kế V.A Điôchiarép được thưởng Hu}n chương tướng lĩnh Xuvôrố p lo ại I. Tôi cho r ằng phần thưởng này là hoàn toàn xứng đ|ng. Những gì m{ ông đ~ l{m trong những năm chiến tranh, với tư c|ch một nhà thiết kế, ông đ~ vạch ra được chiến lược về vũ khí trong thiết k ế m ẫu, đó thực s ự là chiến công của m ột v ị tướng. Ngoài nhiệm v ụ thi ết
kế trong thời chiến gian khổ, sau chiến thắng vĩ đại ông lại hoàn thiện nhiều mẫu súng bộ binh trang bị cho Hồng quân. Nhiều ngươi đ~ có lý khi cho rằ ng, tên gọi “Tula” đ~ x|c định cho số phận của thành phố vũ khí, bởi vì chính t ừ “tula” theo tiếng T|cta có nghĩa l{ “ống tên”. Cũng như Tula, Cavưrốp trong những năm chiến tranh Vệ quốc vĩ đại đ~ trở th{nh “mũi tên thép” của nước Nga. Huy hiệu của Thành phố anh hùng Tula
Để nói về ý nghĩa đóng góp v{o việc chế t ạo các hệ thống vũ khí bộ binh của các nhà thiết kế Cavơrốp, ta chỉ cần nêu ra một sự kiện sau: Trong nh ững năm chiến tranh họ đ~ chế t ạo được chín mẫu vũ khí mới trang bị cho qu}n đội, không kể các công việc hiện đại hóa các h ệ thống đ~ được sản xuất hàng loạt. Chỉ riêng t ừ năm 1944, nh{ m|y đ~ đưa v{o sả n xuất sáu mẫu vũ khí mới, trong đó có ba mẫu đượ c sản xuất hàng lạt trên dây chuyền. Không một nhà máy cùng loại n{o đạt được kết quả tương tự. Tôi mong được gặp Xasa Zaisép nh ất để chia sẻ ngay với anh về những dự định mới của tôi về cải tiến mẫu. Nhìn nét mặt tươi cười quen thuộc của Xasa tôi r ất mừng. Vừa bước xuống sân ga, anh bạn đ~ ôm chầm lấy tôi. V.X Đêikin, cộng tác viên của t ổng cục pháo binh lần n{y cũng đi cùng tôi từ trường bắn đến, vỗ vai Xasa nói: - Xasa, cậu đừng ôm Mikhtim c ủa chúng ta đến nghẹt th ở như thế. C ậu không thấy Mikhtim gầy đi bao nhiêu trong thờ i gian thử đấy à? - Không sao, ở đ}y chúng tôi sẽ “tu chỉnh” lại anh ấy. – Xasa giang r ộng tay, nhìn vào mắt tôi. – Và nếu anh ấy muốn, chúng tôi sẽ cưới vợ cho anh ấy. Con g|i Cavơrố p chúng tôi rất xinh, đặc biệt là ở xí nghiệp dệt-sợi. - Ý định của cậu muộn rồi. Xasa. – Đêikin cười – Mikhtim không ch ỉ thắng trong cuộc thử mẫu, mà còn kịp chinh phục được một trái tim ph ụ nữ. - Thế à? Cậu cưới vợ thật rồi à? – Zaisép reo lên ng ỡ ngàng. Tôi lặng lẽ gật đầu. - Nếu biết sự thể như thế, chúng tôi s ẽ không cho Mikhtim đi trường bắn, – Bạn tôi hướng về Đêikin thở dài vẻ rầu rĩ giả vờ. – Thế là chúng tôi mất một chú rể. - Thôi, đủ rồi, – Tôi ph ất tay – Gờ ta nói về công việc.
Sáng hôm sau, trong cu ộc họp với kỹ sư trưởng nh{ m|y, V.X Đêikin b|o c|o chi tiết về chuyến đi v{ về nhiệm vụ phải giải quyết trong thời gian ngắn nhất “ho{n thiện khẩu tiểu liên c ủa nhà thiết kế Kalasnhicốp”. Tôi và Xasa Zaisep, gi ấu l~nh đạo, bàn nhau th ực hi ện m ột ý định táo bạo: Giả làm hoàn thiện, chúng tôi bố trí lại m ột c|ch căn bản toàn bộ kh ảu ti ểu liên. Sở dĩ chúng tôi dám mạo hiểm, vì điều kiện trong cuộc thi không đề cập t ới việc bố trí lại mẫu. Việc đó chỉ giúp cho c ấu t ạo của vũ khí đơn giản hơn, độ tin cậy khi sử dụng trong điều kiện khó khăn được n}ng cao hơn. Mộ t việc đ|ng l{m. Chúng tôi chỉ lo một điều: Liệu chúng tôi có th ể thu xếp để k ịp th ời h ạn quy định cho việc hoàn thiện m ẫu hay không?
Dù sao thì chúng tôi cũng phải thông báo k ế hoạch mật cho Đêikin biế t. Xem xét k ỹ các tính toán, các bản vẽ phác xong, không những anh ủng h ộ ý tưởng c ủa chúng tôi, mà còn cho những lời khuyên c ủa một chuyên gi| vũ khí bộ binh có kinh nghi ệm. Anh là một người tuyệt vời, rất nhạy bén với những ý tưởng cải tiến, biết phát huy tính chủ động sáng t ạo v{ n}ng đỡ để phát triển nó lên. Anh đ~ đóng vai trò không nhỏ trong cuộc đời của nhà thiết kế và cuộc đời của chính khẩu AK-47… Lịch đ~ chỉ sang năm 1947. Phải mất hơn hai năm trời mới chế t ạo được một lo ại vũ khí bộ binh t ự động m ới, sau đó nó sẽ được sử dụng hàng chục năm sau. Để so sánh tôi xin nêu m ột con số: Thông thường, để cho ra đời một m ẫu vũ khí, kể t ừ khi bắt đầu đến lúc thử lần cuối, phải m ất t ừ năm đến bảy năm. Thế nên, việc ra đời m ẫu vũ khí bộ binh t ự động này chỉ sau chiến tranh có hai năm, l{ mộ t thành t ựu có ý nghĩa lớn lao nhường n{o! Để khẳng định thêm điều này, tôi xin trích d ẫn ý kiến của một nhà nghiên cứu vũ khí Mỹ nổi tiếng Edward Clintôn Izel, c ố vấn chính của phòng lịch sử lực lượng vũ trang, người phụ trách bộ sưu tập hỏa khí của Viện bảo tàng quốc gia Mỹ. Trong một tác phẩm lớn về lịch sử phát tri ển vũ khí của nước ta, m{ ông đ~ bỏ ra nhiều năm để viết, có những dòng sau: “Sự xuất hiện của khẩu tiểu liên Kalasnhic ốp trên trường quốc t ế là một trong những d ấu hi ệu ch ứng t ỏ r ằng, một k ỹ nguyên k ỹ thu ật m ới đ~ bắt đầu ở Liên Xô”. Tôi phải nó thêm r ằng, nhắc lại những dòng viết trên không phải l{ để kể công, mà tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều quan trọng l{, năm 1947 l{ một năm có bướ c ngoắt lớn trong đời sống của đất nước, trong đó kể cả việc đảm bảo khả năng quốc phòng vững chắc trong điều kiện của “cuộc chiến tranh lạnh” đang leo thang.
… Thế là, mẫu thiết kế của tôi đ~ thắng trong cuộc thi đua, v{ được trang bị cho qu}n đội.
Hội đồng thi tuyển ra quyết định t ạm ch ế t ạo m ột đợt đầu, dùng cho các cu ộc thử nghiệm mới ngo{i đơn vị quan trọng hơn nhiề u so với thử đối chiếu, so sánh ở trường b ắn. Số phận tương lai của khẩu súng phụ thuộc nhiều vào kết quả các cuộc thử nghiệm n{y. Tôi đượ c biết rằng, nhiều nhà thiết kế đã gặp rắc rối ở chính giai đoạn này. Vì kiểm tra trên thao trường qu}n độ i, thực chất là kiểm tra trong chi ến đấu và không phải mẫu n{o cũng chịu đựng nổi, khi nó đượ c các chiến sỹ, h ạ sĩ quan sử dụng. Khi ấy có không được sản xuất tiếp, đợt đầu ch ỉ là s ản xuất thử. Th ậm chí, đôi khi, có những cải tiến sau khi th ử, thay đổi cấu t ạo mẫu cũng không giải quyết được vấn đề gì. Lại còn một m ối lo: Li ệu kh ẩu ti ểu liên có đ|p ứng niềm hy vọng của chúng tôi?… Không, “ống tên” Cavơrốp, một trong những “ống tên” vững bền nh ất của Tổ quốc sẽ không phụ lòng tin.
RA ĐỜI CỦ A KH ẨU AK-47 Khẩu tiểu liên mới dự định được sản xuất đợt đầu ở một trong những nhà máy vùng Uran, do l{ nh{ m|y động cơ củ a thành phố Igiepxk. Trong th ời gian chiến tranh, nh{ m|y n{y đ~ sản xu ất các sản ph ẩm quân sự. Nhà máy có công su ất không lớn, nhưng có đội ngũ chuyên gia l{nh nghề. L~nh đạ o Tổng cục pháo binh nói v ới tôi như thế ở M|txcơva, khi dặn dò tôi trước khi lên đường đi Igiepxk. Thế là, m ột lần nữa tôi lại được c ử đến m ột mi ền xa lạ. Cấp t rên động viên ai n ủi tôi, hứa sẽ giúp đỡ mọi mặt cần thiết. Lúc ấy, tôi không nghĩ rằ ng, tôi sẽ đến thành phố không quen thuộc, xa M|txcơva vĩnh viễn, rằng Igiepxk là trạm dừng cuối cùng trong cuộc đời sáng t ạo của tôi.
Cùng đến Igiepxk có b ốn người: Tôi, Đêikin, Zaisép v{ Xukhitxki. Trung t| – k ỹ sư Đêikin l{ đại di ện của Tổng cục ph|o binh đượ c cử đến nh{ m|y động cơ để hỗ trợ v{ giúp đỡ đề |n. Zaisép được nh{ m|y Cavơrố p cử đi. Đại úy Xukhitxki đượ c cử đến Igiepxk l{m trưởng đại diện, cũng như tôi, anh đ ã ở lại h ẳn nơi n{y. Tất c ả chúng tôi đều cùng một lứa, nên dễ chan hòa vui v ẻ và sinh hoạt đơn giản hơn. Tấ t cả chúng tôi còn l{ “những k ẻ cu ồng tín vũ khí”. Vì vậy, đ~ quy định v ới nhau trước, t ừ khi còn ở M|txcơva rằng, trên đường đi không được “nói tấ t câu gì về công việc”. Nhưng, khi vừa vào cupê xong, là b ắt đầu th ảo lu ận sôi nổi ngay về công việc sắp t ới. Chúng tôi lo lắng nhiều điều: mọi người ở nhà máy xa lạ sẽ đón tiếp chúng tôi thế nào? Liệu chúng tôi có th ể sản xuất đợt đầu đảm bảo chất lượng hay không? Các chuyên gia Igiepxk có làm việc như c|c chuyên gia Cavơrốp hay không? Như mọi lần, Xasa Zaisép l{ người đầu tiên “bẻ ghi” hướng chúng tôi sang đường ray “l{m việc”. - Nếu họ cử cho mình m ột kỹ sư giỏi chịu trách nhiệm soạn thảo tài liệu và sản xuất thử thì t ốt biết bao. Như ở Cavơrốp, rất nhiêu vấn đề phụ thuộc vào nhân vật này, – Zaisép không hướng vào ai c ả, nói nhẩn nha trong ti ếng bánh xe sắt đập liên t ục. - Cũng phải nói rằng, rất nhiều vấn đề còn phụ thu ộc v{o chính đại diện của chúng ta ở xí nghiệp – Đêikin quay lại phía đạ i úy Xukhitxki ng ồi cạnh cửa sổ. Cuộc nói chuyện của chúng tôi kéo dài mãi t ới quá nửa đêm. - Giờ chúng ta đến một nh{ m|y, nơi ta không phả i tham gia vào công vi ệc xây dựng. – Đối v ới chúng ta hi ện nay, việc quan trọng là xây dựng quy trình công ngh ệ theo bước công việc, chuẩn bị trang, thiết bị để sản xuất loạt đầu tiên – Xukhitxki hướng mọi người trở về công việc sắp t ới.
- Vâng, vâng, công việc sẽ đầy mình, t ất nhiên l{ như thế. – Đêikin khẳng định lời Xukhitxki và m ột lần nữa lại chăm chú nhìn sang người đạ i di ện quân sự c ủa chúng tôi. - Vậy thì có một đề nghị, cho anh em được tĩnh dưỡng. Đồ ng chí trung tá k ỹ sư, cho phép tôi phát l ệnh “giải t|n” được chưa ạ ? Xutkhitxki nhổm dậy t ừ t ầng trên.
Đêikin cười vang: - Buổi sáng bao giờ cũng thông minh hơn buổ i t ối. Tất cả, đi ngủ!
Nh{ m|y đón tiếp chúng tôi rất ch}n tình. Điề u phấn khởi nhất l{, trước khi chúng tôi đến, l~nh đạo nh{ m|y đ~ chuẩ n b ị sẵn công việc cho chúng tôi, c|c đồng chí giới thiệu cho chúng tôi người ch ịu trách nhiệm v ề so ạn th ảo tài liệu k ỹ th ật và sản xu ất loạt thử. - Vinôkgôi Đavit Abramôvich, kỹ sư hết kế chính của nhà máy. Cái bắt tay của ông rất chặt. Trong diện mạo ông toát ra m ột c|i gì đó vững chãi. Ông nói không v ội vàng, nhấn mạnh vào những điểm, theo lông là quan tr ọng nhất. - Chúng tôi đ~ th{nh lập một đội đặc biệt để sản xuất loạt súng thử. Tôi sẽ giới thiệu với c|c đồng chí những kỹ sư thiết kế công nghệ, phân tích, ngay t ại chỗ làm việc. Tôi cho r ằng, chúng tôi sẽ b ắt đầu nghiên c ứu chi tiết tài liệu k ỹ thu ật. T ốt nh ất là phải đọc hết các bản vẽ một cách thật kỹ lưỡng, phân tích rõ ràng, chính xác. Ch ỉ có như thế công việc ở c|c ph}n xưởng mới nhẹ nh{ng hơn.
Đavít Abramôvích cầm lấy một chiếc cặp tài liệu, nhìn vào một t ờ giấy, rồi rút ra. - Đ}y l{ bản tính toán các công vi ệc chuẩn bị, tôi cho rằng giai đoạn này là ph ức t ạp nhất. Trước mắt chúng ta ph ải t ự chế t ạo những gì? Dụng cụ gá lắp, khuôn dập, một phần dụng cụ cắt gọt, dưỡng. Làm gì? Ở xưởng n{o? Ai l{m? C|c đồ ng chí hãy xem trong này. Nắm v ững toàn bộ các chi tiết càng nhanh thì công vi ệc c ủa chúng ta tiến triển càng nhịp nh{ng hơn. Chúng tôi th ật may được làm việc v ới m ột k ỹ sư thiết k ế trưởng c ủa nh{ m|y như thế. Ông là m ột nhà t ổ ch ức xu ất sắc, nắm v ững quá trình sản xuất hàng loạt trang bị vũ khí cũng như qu| trình sả n xu ất loạt th ử. Ông đ~ thiết k ế thành công toàn b ộ quy trình công nghệ, b ố trí trang thi ết bị cho c|c ph}n xưởng, tìm máy móc sản xu ất chi tiết. Ông còn quan t}m đế n vật liệu kim loại, các loại phôi, khuôn. R ồi lựa chọn thợ nguội, thợ tiện, thợ phay lành nghề.
Ông còn có một đặc tính kh|c thường l{… nói thế nào cho d ễ hiểu nhỉ?… Chẳng hạn ông dẫn tôi đến gặp một kỹ sư có b{n tay v{ng m{ sau n{y l{ ngườ i giải quyết được nhiều việc, ông đứng giữa giới thiệu hai người với nhau, hai tay gi ữ lấy mỗi người một bên, rồi cứ như l{ muốn kéo xích h ọ lại gần nhau, gắn lại với nhau. “Tôi đi được chưa?”- Ông cười hỏi?
Ông đi l{m l{m tiếp công việc của mình. Còn mối quan hệ gắn bó thì ở lại… Cứ thế, dần dần ông đ~ gắn bó tôi vĩnh viễn với mọi người, mọi nơi trong nh{ m|y. Đối với tôi, một người thiết k ế còn trẻ, tác giả của m ẫu vũ khí đang được nhà máy chuẩn b ị s ản xu ất là loạt thử, thì sự giúp đỡ c ủa ông không chỉ là của người trên mà còn là của người cha ấy, thật quan trọng nhường nào. Thấy công việc c ủa chúng tôi tiến triển có kết qu ả và nhịp nh{ng, tôi đ|nh bạ o xin Đavit Abramôvích cho l{m một thí nghiệm nhỏ.
Trong điều kiện có thể của nhà máy, tôi r ất muốn chế t ạo một vài mẫu cácbin t ự đông theo thiết kế riêng, đ~ loại bỏ những “khuyết t ật” m{ mấy năm trước thiếu tướng công binh công trình k ỹ thuật Đubôvítxki đ~ chỉ ra khi th ử. Tôi còn có các b ản vẽ c ủa c ả khẩu trung liên nhẹ đ~ cải tiến. Giờ tôi muốn hỏi Vinôkgôi xem có th ể t ạo được mẫu đó không? Ông đ|p ứng nhiệt tình ý tưởng này của tôi. - Được, có thể thử làm. Chẳng cái gì lại có sẵn ngay cả. Vichiaxláp, – ông gọi một kỹ sư công nghệ lại. – Đồng chí nãy xem bản vẽ. Tôi thấy có nhiều điều thú vị. Ta hãy giúp đồng chí thiết kế trẻ. Trong một thời gian rất ngắn, một số mẫu cácbin và súng máy nh ẹ đ~ được sản xuất. Các mẫu n{y không được trang bị, nhưng nó cho phép chúng tôi tiế p cận với công việc s ản xuất ti ểu liên một cách nghiêm ng ặt hơn v{ gọi ý một s ố gi ải ph|p độc đ|o để hoàn thiện quá trình sản xuất loạt thử. Còn một điều khác, quan tr ọng hơn: Vinôkgôi dường như muố n cho tôi hiểu thế nào là t ự do, sáng t ạo. Mặc dù công việc chế t ạo lo ạt tiểu liên thử tiến triển t ốt v{ không có điều gì phải phàn nàn về phía nh{ m|y, nhưng đôi khi tôi cả m thấy một số chi tiết, bộ phận làm chậm, tôi hỏi Vinôkgôi. - Đavít Abramôvích, chúng ta h~y tăng nhanh tốc độ chế t ạo bộ phận cò súng lên.
- Không nên vội vàng, bạn trẻ ơi. Chậm t ốt hơn nhanh, m{ phạ m sai sót sau l ại phải sửa.
Nhưng chỉ được độ hai ngày sau tôi l ại nài: - Đavít Abramôvích!… Thế n{o, có nhanh hơn được không ạ? Vinôkgôi ôm lấy vai tôi cười, nói: “Không vội, thì không sai!” V{ ông đ~ đúng. Trước kia cũng thế, v{ nay cũng thế: Tôi coi ông như “người cha đỡ đầu” của tôi ở Igiepxk. Ông luôn sẵn sàng chia s ẻ với tôi những kinh nghiệm và kiến thức của mình. Tình bạn của chúng tôi và ông ch ỉ đứt đoạn sau khi ông m ất, sau gần ba mươi năm chúng tôi biết nhau. Nhà thiết kế chính của nh{ m|y ưa sự chuẩn xác trong quyết định v{ h{nh động. Ông thuộc diện các kỹ sư – thiết kế l~o th{nh đ|nh gi| con người trướ c hết theo công việc. Biết làm việc m ột cách trung thực và có hiệu quả. Ông đòi hỏi r ất nghiêm khắc đối v ới nh ững người ph ạm sai lầm dù là rất nhỏ vì t ắc trách, c ẩu th ả. Được làm việc bên cạnh Vinôkgôi tôi được bồi bổ kinh nghiệm về cách giải quyết một cách lành nghề các nhiệm vụ của người kỹ sư – thiết kế trong điều kiện nhà máy. Tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh về vai trò c ủa kỹ sư thiết kế chính của nhà máy trong số phận của chúng tôi, nh ững người thiết kế vũ khí. Chúng tôi l{m việ c riêng, t ừng người theo mẫu của mình. Cùng lúc nh{ m|y đề u sản xuất hàng loạt mẫu của một số nhà thiết kế khác nhau. Rồi lại còn sản xuất các loạt mẫu thử nữa. Cho nên người kỹ sư thiết kế chinh của nhà máy phải đi s}u v{o mọi chi tiết. Trong quá trình tri ển khai sản xuất và trực tiếp khi sản xuất ra sản phẩm, trong việc hoàn thiện k ết c ấu và trong quá trình hi ệu ch ỉnh c|c bước công nghệ… Kết quả công việc phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của người kỹ sư thiết kế chính nhà máy.
V.A. Điôchiarép luôn rấ t kính trọng khi nói về kỹ sư thiết kế chính của nhà máy Cavơrốp. I.V Đôngusép, một người có trình độ chuyên môn cao bi ết phát hiện nhanh chóng những điểm y ếu trong các kết c ấu. Điôchiarép nhớ lại trường hợp súng chống tăng ПTPД bị hóc vỏ đạn v{o năm 1942. Một ủy ban đặc biệt đ~ được thành lập để phát hiện nguyên nhân hỏng hóc. I.V. Đôngusép l{m việ c trong thành ph ần ủy ban này. Ông phát hi ện ra điểm yếu trong kết c ấu. Và sau nhiều l ần thử, ông đưa ra một số giải pháp thú vị về kết cấu. Theo đó đ~ lắp găng một khớp trục bổ sung vào ổ khóa nòng, tăng độ bóng gia công chi ti ết cụm khóa nòng. Hỏng hóc được khắc phục và súng chống tăng đ~ l{m việc t ốt ngoài mặt trận trong mọi điều kiện. Trong thời chiến chúng ta cũng được nghe nhiều lời t ốt đẹp về kỹ sư thiết kế chính của nhà máy Igiepxk V.I Lavrenn ốp. Ông l{ ngườ i trung thành với sự nghiệp vũ
khí, biết nhận ra một cách tinh t ế mọi tình huống phức t ạp khác nhau x ảy ra trong mọi hoàn cảnh khi sản xuất vũ khí. Nới về ông, t ốt nh ất ta dẫn lời c ủa th ứ trưởng Bộ dân ủy quân trang V.N Nôvic ốp trong những năm chiến tranh: “Bỗ ng nhiên kỹ sư thiết kế chính của nhà máy V.I Lavren ốp nhận xét không được chắc chắn lắm rằng, trong những năm trước chiến tranh đ~ có nhiều đề ngh ị c ải ti ến công nghệ s ản xu ất súng trường, đơn giả n hóa các b ộ phận, các chi tiết… v{ theo ý kiến của ông thì những đề ngh ị đó sẽ l{m tăng tốc độ s ản xu ất vũ khí lên nhiề u mà không ảnh hưởng đến chất lượng… Phải chăng đ}y chính l{ đầu sợi chỉ giúp ta lần gỡ ra được cả một cuộn ch ỉ?… Sau khi đ|nh gi| xong to{n bộ c|c đề nghị c ải ti ến đ~ tích lại trong nhiều năm, chúng tôi hiểu chắc chắn rằng đ}y chính l{ lối thoát chính cho tình th ế”. Vậy là kỹ sư thiết kế chính nh{ m|y đ~ lần ra đầu mối để gỡ ra một loạt vấn dề liên quan t ới vi ệc tăng sản lượng vũ khí sản xu ất ra, mà không làm gi ảm chất lượng s ản phẩm. Đề nghị do V.I Lavrenn ốp đưa ra l{ một giải pháp của một chuyên gia lành nghề, hiểu biết công việc của mình đến độ nhuần nhuyễn.
Đ.A. Vinôkgôi thuộc lớp kỹ sư thiết kế chính kiệt xuất của các nhà máy qu ốc phòng thời đó. Phải kh ẳng định r ằng, mọi m ối quan hệ c ủa chúng tôi đều rất t ốt đẹp, nhưng loạt tiểu liên thử được sản xuất được dễ d{ng thì cũng không nhưng chỉ có những khó khăn mới t ỏ rõ t{i năng của Abramôvích. Trong nh ững tình huống như thế, thì ông giải t ỏa thần kinh căng thẳ ng bằng những c}u nói đùa, khôn khéo d{n hòa c|c đ|m cãi nhau, tách m ỗi người sang một bên, rồi bất ngờ dồn dập chất vấn t ừng người một là giải quyết xung đột rắc rối. Loạt tiểu liên đ~ được sản xuất đúng thời gian, có chất lượng t ối. Đại diện bên quyết định, Xukhitxki ti ến hành nghiệm thu, kiểm tra kỹ t ừng cụm chi tiết và bộ phận một. Sau đó chúng tôi cùng đứng xem anh em công nhân ch ụm c|c đầu súng dựng đứng th{nh hình th|p để nhuộm sơn bóng đen cho c|c sản phẩm mới tinh này. Loạt tiểu liên đầu tiên sản xuất theo phương ph|p công nghiệp, đượ c gửi ra đơn vị qu}n đội để thử. Khẩu tiểu liên được đặ t tên chính thức là AK-47. Sau độ hai th|ng tôi được lệnh gọi về Tổng cục pháo binh, về M|txcơva. Ở đ}y, tôi được biết rằng, chánh nguyên soái pháo binh N.N Vôrôn ốp chuẩn b ị xu ống đơn vị để tr ực ti ếp xem xét sự làm việc của kh ẩu ti ểu liên mới trong điều kiện qu}n đội. Tôi không nghĩ l{ mình lạ i có dịp đi cùng ông trong cùng m ột chuyến tàu.
Bước v{o toa t{u, người đầ u tiên tôi g ặp l{ V.A Điôchiarép. Hóa ra cả ông và C.G Ximônốp cũng được g ọi v ề M|txcơva. Chúng tôi xuống đơn vị qu}n đội. Nguyên soái Vôrônốp ở toa công v ụ bên cạnh.
- Chúng ta lại gặp nhau – Thấy tôi, Điôchiarép cườ i hiền hậu. – Các cậu đuổi kịp cánh già chúng tôi r ồi đấy! Cũng phải thôi, ngày nay m ọi con đường đều rộng mở cho thanh niên, miễn là anh phải đưa ra được cái mới. Chúng mình không ph ật lòng đ}u! Miễn là các cậu đem lại lợi ích cho Tổ quốc. C.G Ximônốp t ừ toa bên c ạnh bước ra. Ông đứ ng bên cạnh một vị tướng dáng chững chạc, chỉnh t ề như mọi khi. Nhưng giọng nói thì đượ m vẻ trầm ngâm: - Để rồi xem “anh em chiến sĩ” sẽ nói gì với chúng ta… Phả i không, Vaxiliep Alêchxiêvích? – Nói xong ông th ở dài. Lần đi thử này, ngoài khẩu tiểu liên của tôi, còn thử cả khẩu trung liên xách tay ПPД của Điôchiarép và khẩu cácbin t ự động của Ximônốp (CKC). Vì th ế mà nguyên so|i đ~ tập trung t ất cả chúng tôi đi cùng để có thể trực tiếp nghe những đề nghị, yêu cầu của anh em chiến sĩ, hạ sĩ quan v{ sĩ quan v{ cũng đồ ng thời để ông có thể nói chuyện với chúng tôi trong nh ững cuộc gặp đó.
Ba chúng tôi cùng đứng ngoài lối đi, chuyện trò chẳng mặn mà, không rõ vì sao. Mỗi người, có lẽ, theo dõi ý nghĩ riêng về cu ộc th ử sắp t ới, về sự đ|nh gi| của nh ững ngời lính trơn về sản phẩm của mình. Bên ngoài, nh ững cánh rừng nhỏ và các làng mạc vun vút lao qua. Đừ ng một lát, chúng tôi tr ở về phòng. Tôi đ~ chuẩn bị nằm, thì một nh}n viên đường sắt không quen gõ cửa v{ bước vào phòng: - Anh l{ thượng sĩ Kalasnhicốp? – anh ta hỏi tôi. - Đúng thế. - Nguyên soái cho g ọi anh. Mời anh theo tôi sang phòng công v ụ. Thú thật, tôi không đo|n đượ c nguyên soái c ần gì, đề tài cuộc nói chuyện về cái gì. Tôi hỏi người nhân viên: - Ông có gọi Điôchiarép v{ Ximônố p không? - Chỉ gọi mình anh. Tôi kéo chặt chiếc xanhtuya và sửa các vết gấp trên chiếc áo varơi, lấy bàn chải đ|nh đôi ủng rồi bước sang toa cạnh. - Anh v{o phòng luôn đi. Ông đang đợ i, – Giọng người nhân viên nói ở phía sau.
Tôi bước vào phòng, báo cáo có m ặt theo đúng điều lệnh qu}n đội quy định cấp dưới khi đến gặp cấp trên. Nguyên soái t ừ sau chiếc b{n, đứng dậy ch{o. D|ng người ông cao lớn, tóc bạc trắng. Ông đặt bàn tay to nặng lên vai tôi: - Đồng chí hãy ng ồi xuống bàn. Hôm nay chúng ta s ẽ cùng ăn trưa. Đồng chí đồng ý chứ? Chắc h ẳn ông thấy trong mắt tôi có vẻ ngỡ ng{ng trước lời m ời đột ngột ấy và có cử chỉ do d ự, e dè nên ông khoát tay d ứt khoát:- Không có gì ph ải ngại ngần. Chỉ đơn giản là tôi mu ốn nói chuyện với đồng chí về cuộc sống, về công việc làm khẩu tiểu liên, về dự định tương lai của đồng chí. Nhưng trướ c khi bắt đầu câu chuyện thì phải ăn đ~. Chuyện trò gì nếu dạ dày trống rỗng. Phải không?… Thế nhé! Nguyên soái trò chuyện với tôi như một ngườ i cùng cấp. Ông lắng nghe t ất cả những gì tôi nói, thế là rất t ự nhiên khoảng cách khi cấp dưới gặp cấp trên đ~ biến mất t ừ lúc nào không biết. Mà ở đ}y lại là m ột hạ sĩ quan được chánh nguyên soái g ọi lên nói chuyện! Đức tính giản dị, và sức lôi cuốn của nguyên so|i đ~ chiếm được cảm tình của mọi người.
Thì ra, nguyên so|i đ~ theo dõi công việ c của tôi t ừ cuối cuộc chiến tranh. Điề u làm cho ông quan t}m, trước hết có lẽ vì s ự xuất hiện đột ngột của tôi, m ột thượng sĩ xe tăng, trong h{ng ngũ những ngườ i thiết kế – vũ khí nổi tiếng, hơn nữa lại l{ người có những giải pháp bất ngờ trong thiết kế vũ khí Chánh Nguyên soái pháo binh Vôrôn ốp vẫn thường ký giấy công tác cử tôi đến phòng sáng chế của Bộ dân ủy quốc phòng, để đại t| trưởng phòng Glukhốp trực tiếp hướng dẫn, quản lý hoạt động của tôi và khi cần thiết thì giúp đỡ. Chẳng hạn, năm 1944, khi tôi thiết kế, chế t ạo khẩu trung liên xách tay, ho ặc trong quá trình làm khẩu ti ểu liên, khi phát hi ện v ật ch ế t ạo không đủ, nguồn cung cấp đ~ hết, tôi đ~ lên gặp đại tá Glukhốp nhờ giúp đỡ. Đầu tiên đạ i tá dự định giải quyết, nhưng t{i vụ đ~ không cấp kinh phí, đ{nh chị u. Tôi còn nh ớ, lúc trở về ban mặt ông t ối sầm lại: - Có lẽ phải báo cáo lên chánh nguyên soái Vôrôn ốp. Cậu đừng ngạc nhiên, nếu ông cho lệnh gọi lên gặp. Glukhốp gọi điện trước lên pòng tiếp, rồi đi ra khỏi phòng, làm vi ệc một lúc lâu. Khi ông quay về trông nét mặt đ~ thấy vui lên nhiều. - Chuẩn bị tư thế, chúng ta lên g ặp nguyên so|i. Tôi nghĩ rằ ng, việc cấp kinh phí tiếp cho công việc của cậu sẽ được giải quyết tích cực, tôi linh cảm thế. – Glukhốp xoa xoa lòng bàn tay, nói v ẻ hài lòng.
Cuộc g ặp đầu tiên với nguyên soái tôi còn nh ớ rõ. Buổi g ặp b ắt đầu không theo l ệ thường. Ông bảo tôi dừng bản báo cáo ấp úng về công việc làm tiểu liên của tôi lại, rồi mở cửa nách thông sang phòng bên, làm phòng ngh ỉ khi ph ải ở lại qu| đêm. Phòng này bố trí đặc biệt.
Trên tường treo một số vũ khí trong v{ ngo{i nước, rất nhiều loại dao có vỏ bao, và không vỏ, những con vật săn bắn đượ c. - Việc này chắc đồng chí quen thu ộc nhỉ, đồng chí thượng sĩ? - Dạ, đúng thế ạ!- Tôi rất thích thú vũ khí. - Vậy thì h~y đ|nh gi| bộ sưu tập của tôi. Giờ thì ngày càng hi ếm có điều kiện để bứt đi xa, nơi rừng rậm, được nghe tiếng gà rừng gọi m|i, được đón |nh bình minh sắp lên, thật chả còn gì thú hơn! Tôi lại đồng tình: - Dạ, đúng thế ạ! Nguyên soái lẩm bẩm thân thiết: - Đúng thế, n{y… Đồng chí quê vùng nào? - Altai ạ! Tôi ở vùng giáp ranh r ừng Taiga và thảo nguyên. - Vùng đó thật tuyệt vời!- Nguyên soái kh ẳng đinh – Tuyệt vời!… Tôi đ~ ở c|ch đấy không xa. – Ông khoát rộng tay chỉ lên cặp sừng nai, chiếc đầu lợi lòi nhe nanh và những con thú nhồi treo trên tường và trên gi| đỡ – Xem đấy!… Mỗi vật này chứa đựng trong đó cỏ m ột câu chuyện k ỳ thú nhất. Đồng chí còn trẻ, chưa có bộ sưu tập của mình, nhưng nhữ ng câu chuyện kể thì chắc phải có h{ng đống. Ông cứ nói với giọng tâm tình, thuận tiện ấy, nên t ừ lúc nào không rõ tôi không còn đ|p theo điều l ệnh “đúng như thế” nữa, mà chỉ gật đầu tr ả lời và thở dài lấy hơi như đứa trẻ. - Thế đấy! – Ông nói – Giờ thì chúng ta phải ở đ}y để nói cho nhau nghe nhưng c}u chuyện n{y. M{, gi| như đồng chí không ph ải là nhà sáng ch ế tiểu liên m{ l{ súng săn nhỉ?… Nhưng b}y giờ thì không ph ải lúc… vì ho{ng hôn v{ bình minh giờ thì đều ở đ}y, trong phòng n{y. V{ đồng chí thì… tiể u liên. Tôi có theo dõi công vi ệc c ủa đồng chí, kết quả t ốt. Đồng chí Glukhốp có báo cáo về thành tích c ủa đồng chí. Hãy c ố gắng giữ vững. Còn bây giờ đồng chí hãy báo cáo, công vi ệc thế n{o, đ~ l{m được những gì, kế hoạch tương lai ra sao.
Khi ấy tôi làm vi ệc ở nh{ m|y Cavơrốp. Mọi người đều có quan hệ thiện cảm với tôi, t ập thể cán bộ nhân viên kỹ thuật – kỹ sư cũng rất quan t}m giúp đỡ tôi. - B|o c|o đồng chí nguyên soái, thi ếu nguyên vật liệu cần thiết để kết thúc việc chế t ạo mẫu thử vì không còn kinh phí, chúng tôi h ết tiền.
Lúc n{y chúng tôi đ~ quay lại phòng làm việc. Nguyên soái quay l ại hỏi trưởng phòng sáng chế: - Vướng mắc ở đ}y, đồng chí đ~ l{m rõ chưa? - B|o c|o đồng chí nguyên so|i, đ~ l{m rõ rồ i ạ. Bên tài vụ h ọ nói rằng phòng thiết kế không đứng ra nhận tiền chung nên họ không thể cấp lẻ phân tán cho t ừng mẫu riêng một. Tiếc rằng tôi không th ể thuyết phục được họ. - Không thuyết ph ục được, thế l{ không được đồng chí đại tá ạ, – Nguyên soái l ẩm bẩm – Phải ép c|c tướng tài vụ đầu óc thiển cận ấy mạnh vào chứ. – Ông bất ngờ mỉm cười và quay lại phía tôi: – Th ế cần bao nhiêu, đồng chí thượng sĩ? H~y nêu con số cụ thể đi.
Chúng tôi đ~ cùng với Glukhốp, Đêikin tính to|n trướ c m ọi chi phí sẵn nên tôi trả
lời ngay.
- Thôi được, để tôi sẽ giúp. – Nguyên soái c ầm ống điện thoại. Nghe thấy giọng trả lời, ông h ỏi: – Th ế n{o đồng chí thiếu tướng, đứng làm phật lòng đồng chí thượng sĩ Kalasnhicốp nhé, sao đồng chí không t ạo điều kiện cung cấp vật tư để đồng chí ấy hoàn thành chế t ạo mẫu thử?
Nghe xong đầu dây kia tr ả lời, nét mặt nguyên so|i căng cứng. Ông nói, giọng cứng
rắn:
- Thế n{y nhé, đồng chí thiếu tướng, lúc nào tôi cũng thấy đồng chí cứ một mực “Ph|t cho tập thể”, sao không nghĩ l{ mỗi một mẫu gắn liền vào một người thiết kế cụ thể n{o đó {? Tôi cho rằ ng c ần ph ải c ấp riêng cho t ừng m ẫu, vi có những trường hợp “tập thể” lĩnh tiền mà sản ph ẩm lại không có. Đồng chí hãy báo cáo khi nào c ấp đủ số tiền cần thiết! Có lẽ vì câu trả lời đạt yêu cầu, nguyên soái nói ti ếp: - Cứ thế nhé! - Có vấn đề gì hỏi tôi nữa không? – Nguyên soái ch ờ tôi trả lời.
- Dạ hết ạ. Xin cảm ơn nguyên so|i đ~ giúp đỡ . - Tất nhiên tôi cũng muốn xem cậu săn bắn th ế nào. – Nguyên so|i cười, khi chúng tôi chia tay. – Nhưng để khi khác. Còn gi ờ thì hãy làm ti ếp công việc. Chúng ta đang cần loại vũ khí tốt. Vậy nên, xin chúc đồng chí thượng sĩ th{nh công, may mắ n. Và, bây giờ tôi lại được gặp chánh nguyên soái pháo binh N.N. Vôrôn ốp. Tôi ng ồi cạnh ông, bên b{n ăn, trong toa công vụ. B|t đĩa đ~ đượ c d ọn. Chúng tôi nói chuy ện nhẩn nha trong tiếng va đập của bánh xe hỏa. Tôi không gi ấu nguyên soái chuy ện chúng tôi đ~ cải tiến khẩu tiểu liên sau l ần bắn thử so sánh lần thứ nhất như thế n{o, đ~ thay thế hẳn nhiều chi tiết và cụm chi t ết, bố trí lại mẫu… Chính nhờ có nguồn vật tư được cung cấp kịp thời, do có s ự can thiệp của nguyên soái mà chúng tôi m ới ho{n th{nh được các công việc bổ sung ấy. - À, các cậu khôn khéo nh ỉ, – Nguyên so|i đồng tình với tôi – Giờ đồng chí hãy phân tích kỹ mọi nhận xét, yêu c ầu của anh em dưới đơn vị . Họ sẽ giúp đồng chí hoàn thiện một c|ch cơ bản cấu t ạo của khẩu súng. Cần cố gắng có mặt thường xuyên hơn trong c|c lần b ắn chiến đấu, cũng như trong diễn t ập, huấn luyện, gắn bó với chiến sĩ th{nh một khối. Đồng chí Điôchiarép v{ Ximônố p làm việc n{y khó hơn đồng chí. – Nguyên soái bỗng nhiên lấy lòng bay tay xoa đi xoa lại mặt b{n như l{ phẳng các nếp gấp c ủa chiếc khăn trải rồi tiếp t ục. – V ới m ột thượng sĩ anh em sẽ dễ góp ý thẳng thắng v{ ch}n th{nh hơn, nên chớ có phật lòng, nếu có những nhận xét chạm lòng t ự |i v{ cũng không đượ c vênh mặt t ự cao. Cần nói rằng đ}y l{ một cuộc nói chuy ện đầy tin cậy của cấp trên với cấp dưới. Sau đấy cu ộc đời còn run r ủi cho tôi được g ặp nguyên soái nhiều l ần n ữa. Mà lần cu ối là ở nhà ông, t ại M|txcơva, trước khi ông mất không lâu. Lần ấy, ông t ặng tôi cuốn hồi ký chiến tranh, trao đổi với tôi về các dự định sáng tác mới của ông. Ông nhắc lại dự định đi săn cùng với tôi, nhưng rồ i chẳng sắp xếp được thời gian để ông xem tôi sử dụng khẩu súng săn trong tay như thế nào. Tôi rất muốn viết về cuộc gặp gỡ cuối cùng này vì c ảm thấy đó l{ nghĩa vụ. Còn bây giờ thì chúng tôi cùng ông xu ống đơn vị. Chính vì có s ự tin cậy, nên nguyên so|i đ~ chuyển hướ ng câu chuyện t ừ vũ khí sang những sự kiện m{ ông đ~ trực tiếp tham gia trước đó không l}u, trong cuộc n ội chiến ở Tây Ban Nha và trong cuộc chiến tranh Ái quốc vĩ đại.
Đến bây giờ tôi mới hi ểu, trong những lời nói của ông ẩn chứa bao điều chưa nói hết bao suy tư s}u nặ ng không thể chia sẻ với bất cứ ai… Trong khi ngồi đố i diện với
ông là một thượng sĩ, tóc còn xanh, tuổi còn trẻ. Gi| như b}y giờ m{ được nói chuy ện với ông thì tôi cũng sẽ được mở mang ra nhiều điều. Chính cuộc nói chuyện với nguyên so|i trong toa xe đ~ để lại trong tôi ấn tượng không thể xóa nhòa… Tôi có thể khẳng định rằng trong vị nguyên so|i, người có quyền định đoạt số phận nhiều người khác, là một trái tim mẫn cảm, biết yêu thương, sẻ chia đau đớn, biết khoan dung, đôn hậu với mọi người, nhưng lạ i biết nghiêm khắc, hổ thẹn với chính bản thân.
Ng{y hôm sau chúng tôi đ~ xuống t ới đơn vị. Mỗi nhà thiết kế được dành riêng một phòng vừa có thể làm việc, v ừa có thể ngh ỉ ngơi được. Nguyên soái Vôrôn ốp t ự mình giới thiệu các nhà thi ết kế với cán bộ, chiến sĩ tham gia v{o chương trình thử mẫu vũ khí mới. Chúng tôi đi ra b~i tập. Đi đầu l{ nguyên so|i, theo sau l{ Điôchiarép, Xiimônố p, cuối cùng là tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi được đi trong một đội ngũ nổ i ti ếng đến thế. Không thể nói hết được tâm trạng tôi lúc đó… Đ}y có phải là sự thật hay l{ trong mơ. Chúng tôi d ừng lại, nguyên soái b ắt đầu nói:- Trước mặt c|c đồng chí là những nhà thiết kế vũ khí mới. Thiếu tướng Điôchiarép, người m{ c|c đồng chí đ~ q uen biết qua nhiều loại vũ khí đ~ được thử thách trong chi ến đấu v{ đ~ được yêu mến như những người b ạn trung thành. Bây giờ đ}y c|c đồng chí sẽ thử nghiệm m ẫu trung liên mới của ông. Nguyên soái c ầm tay Ximônốp giới thiệu với mọi người: - Đ}y l{ nh{ thiết kế Ximônốp m{ c|c đồng chí đ~ biế t là nhà sáng chế ra kh ẩu súng trường t ự động, súng chống tăng v{ nhiều mẫu vũ khí tuyệt vời khác. Hôm nay, ông mang đến thử loạt súng cácbin t ự động đ~ được hoàn thiện về thiết kế. Rồi, nguyên soái d ừng lời một lúc, tiến đến phía tôi. Động tác tiếp theo của ông thật bất ngờ, không chỉ đối với toàn thể đơn vị, m{ đặc biệt còn với cả tôi. Nguyên soái lấy hai tay nâng tôi, r ồi bất thình lình nh ấc bổng hẳn lên: - Còn đ}y l{ thượng sĩ Kalasnhicốp, một nhà sáng chế với đầy đủ ý nghĩa của t ừ n{y, đến đ}y lắng nghe ý ki ến nguyện vọng của c|c đồng chí để tiếp t ục hoàn thiện khẩu tiểu liên của mình! Sự khác nhau về chiều cao và trọng lượng, nguyên so|i không khó khăn gì “nhấ c
bổng tôi lên”.
Thú thật là tôi bị sửng s ốt v{ ngượng đến chín cả người. Dưới hàng quân vang d ội tràng vỗ tay làm không khí l ắng dịu h ẳn đi. C|c chiến sĩ v{ hạ sĩ quan vỗ tay hoan hô mạnh nhất, theo tôi hiểu, để t ỏ rõ s ự đồng tình, t|n thưở ng: Hóa ra trong s ố những nhà thiết kế, cũng có người cùng cấp với họ. Có thể do chính s ự kiện n{y sau đó đ~ giúp tôi nhanh chóng tìm đượ c tiếng nói chung với những người thử súng. Ngay t ừ ngày làm việc đầu tiên ở đơn vị, suốt ngày tôi không r ời cây bút chì và quyển sổ. Nhìn thấy tôi ngo{i trường bắn, nguyên soái nh ắc nhở tôi: - Hãy ghi chép th ật chi tiết v{o nhé, đừng ỷ vào trí nh ớ của tuổi trẻ nhé, có th ể nhầm lẫn đấy! Việc bắn thử được tiến hành ở các cự ly kh|c nhau. Đ}u đó thì thoả ng lại có một viên đạn lửa vạch đường quy đạ o trên trời, cảnh tượng trông thật đẹp mắt! Như l{ ngày hội… Nếu như chỉ dùng đạn lửa không, cho các kh ẩu tiểu liên t ự động này thì ch{… phải biết
Nguyên so|i đi từ cự ly bắn này sang cự ly bắn kh|c. Ông quan t}m đến t ừng chi tiết nhỏ liền quan đến đặ c tính của vũ khí mới. Mọi việc diễn ra t ốt đẹp. Nhưng, bỗng nhiên ở một cự ly có một chiến sĩ chạy về phía tôi. Th ấy thế, nguyên soái gọi c ả hai đến gặp ông: - Thế nào, con trai, hãy nói rõ xem, kh ẩu tiểu liên mới có gì không hài lòng.
Người chiến sĩ quay về phía nguyên so|i định nói. - Không, không nói v ới tôi mà nói v ới người thiết kế. Anh ta c ần phải biết việc này. – Nguyên soái giải thích. - Vâng, có thể điều tôi nói, – Người chiến sĩ không được t ự tin – Ch ẳng quan trọng gì. Tôi không thích kh ẩu tiểu liên này. Khi b ắn liên thanh tiếng của nó đập vào tai quá mạnh. Sau lần bắn như thế này, phải ù tai m ất ba ng{y. Nên tôi đề nghị, nếu có thể giảm bớt }m thanh được không ạ? - Ý kiến đồng chí thiết kế thế nào? Tôi cho r ằng nhận xét này rất quan trọng đấy. Người lính ch ỉ có m ột đôi tai, cần phải bảo vệ chúng, – Nguyên so|i nhìn tôi thăm dò, đợi câu trả lời. Về phía mình, tôi cũng biết nhược điểm n{y v{ cũng biế t phải giảm âm thanh t ới mức nhỏ nhất có thể. Th ế nhưng, có vô v{n những điể m hạn chế về cấu t ạo, nên tôi không thể đưa những thay đổi cần thiết, theo quan điểm của tôi, vào thi ết kế. Và, bỗng nhiên xuất hiện tình huống này.
- Đề ngh ị đồng chí ra lệnh mang lại cho tôi ba kh ẩu ti ểu lên, – Tôi quay sang đồng chí chỉ huy đơn vị. - Quyết định của tôi, là c ắt bỏ bộ phận giảm chấn ở nòng súng, – Tôi báo cáo nguyên soái. - H-a-y đ -ấ-y, – Nguyên soái kéo dài gi ọng – Cậu l{ nh{ người thiết kế, quyền hạn trong tay cậu, hãy thí nghi ệm thử đi. Phương ph|p giải quyết t ốt nhất, là nếu có thể thì xử lý khắc phục thiếu sót t ại chỗ. Chúng tôi mang ba kh ẩu tiểu liên xuống xưởng t rung đo{n. Thợ cả quân khí cho rằng b ỏ gi ảm ch ấn nòng sẽ làm ảnh hưởng đến ch ất lượng vũ khí. Có lẽ nguyên soái cũng nghĩ như vậy. Nhưng chúng tôi vẫ n c ắt b ỏ gi ảm chấn nòng. Ngoài bãi bắn, m ột trong ba khẩu tiểu liên được giao cho ngườ i chiến sĩ có ý kiến nhân xét. Anh ta l ập t ức bắn thử ngay. Đứng dậy, anh ta nhận xét vẻ thỏa mãn: - Đấy, giờ thì khác h ẳn.
Hai người kh|c cũng cho cùng một kết luận như vậy. ]m thanh đ~ giảm đi nhiề u, bắn dễ d{ng hơn. Sau lầ n thử này, những khẩu súng tiểu liên được sản xuất hàng loạt không có bộ giảm chấn nòng. Chỉ khi hiện đại hóa lắp thêm vào m ột bộ bù đặc biệt cơ nhỏ. Còn một số bổ sung nữa vào cấu t ạo của khẩu tiểu liên, dựa trên cơ sở nhận xét của một trung sĩ. Tiểu đội trưởng một tiểu đội đang hướ ng dẫn anh em lau chùi v ũ khí sau khi b ắn. Đúng lúc chúng tôi đi qua thì nghe thấ y tiếng anh ta nói gi ọng không hài lòng: - Lách thế n{o đến được cái cục sắt chết tiệt n{y… - Sao thế? – Tôi dừng lại hỏi người trung sĩ. Anh ta không hề lúng túng: - V}ng, b|o c|o c|c đồ ng chí, trong khẩu tiểu liên có chỗ rất khó lau chùi và bôi d ầu mỡ. Chẳng hạn cơ cấu cò là b ộ phận không th|o ra được, có những chi tiết rất khó tiếp xúc.
Người tiểu đội trưởng chứng minh bằng h{nh động thực t ế, để gi ải thích việc lau chùi các chi ti ết này phức t ạp thế nào. - V{ tôi cũng ho{n to{n không hiể u cái lỗ khoan ở tay gạt khung khóa nòng súng dùng để làm làm gì. – Người trung sĩ vung tay vẻ phân vân – Và lau nó b ằng cái gì. Chịu không thể hiểu nổi. Muốn lau chùi thì ph ải có dụng cụ riêng.
Tôi định tìm cách bào chữa, nhưng lại t ự kiềm chế, dừng lại. Trong lời nói của người tiểu đội trưởng, tôi nhận ra một cái nhân hợp lý. Lúc này một chiến sĩ trong nhóm đ~ lau xong vũ khí, đến chỗ chúng tôi nghe chuyện. - Đồng chí thiết k ế h~y chú ý đến tay gạt. Khi ta vừa mới b ắt đầu tháo nó, thì cái lò xo lập t ức văng ra ngo{i. Đ}y, c|i chi tiết nhỏ n{y, sau đó tìm rất khó. Thế là khi tháo phải nhờ người thứ hai, lấy mũ chắn, sẵn sàng tóm lấy chi tiết văng ra. Lại có đề nghị nữa, lại phát hiện ra thiếu sót nữa… Buổi t ối chúng tôi t ập trung t ại phòng V.A Điôchiarép bắt đầ u phân tích những đề nghị mọi người nêu ra. C.G Ximôn ốp nhìn thấy tôi lật các trang ghi chép vi ết kín, nhận xét: - Mình thấy cậu làm việc kh| đấy, viết kín đến một quyển sổ rồi còn gì. Ch ắc anh em nêu ra nhi ều vấn đề thú vị lắm. - Vâng, có nhiều nhận xét tôi không hề nghĩ tới. Đôi khi thật đ|ng ngạ c niên sao mình lại bỏ qua những khiếm khuyết mà anh em chiến sĩ ph|t hiện ra ngay. Thí d ụ như c|i lỗ trong tay g ạt khung khóa nòng. L ỗ này sinh ra thuần túy t ừ ý tưởng công nghệ chứ nó không h ề chịu một t ải trọng chức năng n{o. Do vậ y tôi sẽ giải quyết bằng cách khác. - Đối với những nhà thiết kế chúng ta, không có vi ệc gì đem lại nhiều lợi ích hơn việc giao tiếp với người lính – V.A Điôchiarép tham gia v{o c}u chuyệ n.
Tôi xúc động đến nghẹt thở bởi những t ừ ngạc nhiên đến thế đối với tôi. Những nhà thiết kế chúng ta. M{ người nói là ai kia ch ứ! Ông vẫn tiếp t ục: - Không ai đ|nh gi| ưu khuyết điểm vũ khí của chúng ta t ốt hơn người lính. Vì vậy, tôi đ~ v{ đang quan t}m t ới m ọi ý kiến nh ận xét t ừ đơn vị. Tôi vẫn thường xuyên có mặt trực tiếp ở c|c đại đội. Nh}n đ}y, tôi muốn khuyên Mikhain Timôphêêvich, đồ ng chí hãy liên l ạc thư từ thường xuyên với những nhà sáng kiến, cải tiến, hợp lý hóa trong qu}n đội. Họ có thể gọi ý cho ta nhi ều điều trong việc hoàn thiện cấu t ạo vũ khí. Điều đó được khẳng định bằng kinh nghiệm riêng của bản thân tôi. - Thế khẩu trung liên c ủa đồng chí được đ|nh gi| thế nào ạ? – tôi hỏi V.A
Điôchiarép.
- Có không ít nh ững yêu cầu đ~ được đề đạt. Đa số đó l{ những đền nghị thú vị. Vì thế khi về đến Cavơrốp sẽ có nhiều điều phải suy nghĩ, phải làm việc.
Thế là câu chuy ện đ~ gắn bó chúng tôi l ại v ới nhau. Được nghe những chuyên gia vũ khí t{i năng như V.A Điôchiarép v{ C.G Ximônố p nói chuyện thật chẳng dễ dàng gì. Mà ở đ}y lại ở trong cùng m ột phòng, chuyện d{i d{i không có điể m kết thúc. - Nhất định tôi sẽ l{m cơ cấu tháo rời được, v{ thay đổi cấu t ạo tay gạt – tôi chia sẻ những dự định của mình với các nhà thi ết kế tên tuổi. Tôi đ~ cả i ti ến tay gạt khung khóa nòng, có lẽ phải làm mẫu mới… - H~y tư duy, v{ tư duy một cách kỹ lưỡng đi, đồng chí Mikhain. Sau chuy ến đi xuống đơn vị, đồng chí hãy tháo hàng ch ục lần nữa khẩu súng của mình, xem xét t ỉ mỉ t ừng c|i đinh vít một, tìm mọi c|ch để đơn giản hóa t ừng chi tiết, làm sao chúng bền ch ấc hơn v{ thuận tiện hơn khi sử dụng. V{ cũng chính l{ để giảm nh ẹ công việc trong sản xuất hàng loạt và hạ giá thành – Ximônốp ủng h ộ ý kiến c ủa tôi – C ả kh ẩu cácbin của tôi cũng thế, còn phải làm việc với nó. Cứ tưởng đ~ cải tiến, đ~ ho{n thiện
m{ xong được đ}u…
Thế mà c ả hai ông đều đ~ ở đỉnh cao vinh quang c ủa nghề thi ết kế? Các ông không bao giờ thiếu cẩn trọng trong công việc, luôn cân nh ắc kỹ lưỡng mọi nhận xét cho các mẫu đ~ ho{n thiện b ất kỳ của ai, t ừ người lính cho đến ngườ i th ử súng, t ừ vị tướng cho đến chuyên gia đầu ngành. Cách làm vi ệc như thế đ~ th{nh luật lệ trong hoạt động sáng t ạo kỹ thuật của các ông. Tôi h ọc hỏi được nhiều điều ở họ. Buổi t ối hôm ấy, chúng tôi nói chuy ện về nhiều đề t{i. Tôi đặ c biệt chú ý nghe Điôchiarép, trước đ}y tôi chưa từng đượ c nghe ông nói chuy ện tâm tình và c ởi mở đến thế bao giờ. - Công tác thiết kế của chúng ta là một loại hình công vi ệc, thực t ế không khi nào biết nghỉ ngơi, – V.A Điôchiarép đứng dậy. Đầu ông bạc trắng, gọn gàng trong bộ quân phục cấp tướng ôm chặt lấy người, trông ông giống m ột nhà giáo t ừng rải, thấy nhiều trong đời hơn l{ mộ t quân nhân. – Này nhé, – Điôchiarép tiếp t ục – Đôi khi cậu đi dạo trong thành ph ố cũng có ghé v{o chỗ n{o đó, cũng gặp gỡ nói chuyện với ai đó, thế nhưng khi về đến nhà vợ hỏi có thấy gì hay không khi đi dạ o, có nói chuy ện với ai không thì đ{nh chị u không nhớ lại nổi. Bới ý nghĩ ta nằ m ở hướng khác: Chẳng hạn, làm thế n{o để chiếc lò xo kim hỏa bật về không bị nóng khi bắn? - Ch ắc m ọi người còn nhớ thời gian hoàn thi ện súng m|y ДП – Ximônốp tham gia vào câu chuyện. - Đúng, kinh nghiệ m s ử d ụng ДП ngo{i mặt trận phát hiện ra nhi ều điều l ắm. C ần n}ng cao độ bền cho cơ cấu t ự động… thế l{ đ{nh phải suy nghĩ liên tục. Rồi, chính anh em sử dụng ngoài đơn vị đ~ gợi ý để tìm ra cách gi ải quyết, – V.A Điôchiarép đến
cạnh tôi – Vì thế, n ếu ta nắm được, các chiến sĩ ngo{i đơn vị nghĩ gì về vũ khí của ta là một việc rất quan trọng. - Ông đ~ |p dụng những biện pháp gì sau khi có nh ững nhận xét của các chiến sĩ ngoài mặt trận? – Tôi quan tâm hỏi Điôchiarép. - Thật không vô ích chút nào. Trong cu ộc dạo chơi đó tôi đ~ chẳng thấy gì, và không nhớ gặp ai, – ông cười, nói – Tôi đ~ tìm ra đượ c giải pháp rất đơn giản. Chuyển lò xo kim h ỏa t ừ dưới nòng sang hộp nòng. Đ}y l{ giải ph|p “một công đôi việc”: Lò xo không những không bị nóng mà còn khỏi bị lún trong quá trình b ắn. Súng bắn không bị trễ nữa. - Thì bây giờ, ngay đ}y, chúng ta cũng đang thực hiện “một công đôi việc” rồ i còn gì! – Ximônốp cười vang. – Có khác g ì chúng ta đang ngồi sau bàn làm vi ệc.
Điôchiarép cũng cười theo. - Nhưng tôi biết sau đó anh vẫ n tiếp t ục cải tiến? – Ximônốp lại hỏi. - Đúng thế. Nhân thể chúng tôi c ải tiến cơ cấu có bền hơn, tr|nh bị cướp cò. Áp dụng tay gạt kiểu súng lục v{ thay đổi hình dáng báng súng, c ải thiện điều kiện ngắm bắn. Làm càng súng li ền, cấu t ạo mới. Tóm lại l{, thay đổi nhiều. - Và trong m ột thời gian ngắn… - Nhưng, sao ta cứ nói mãi v ề mẫu của mình thế? Điôchiarép quay về phái tôi – Anh bạn trẻ, đ~ ch|n ngấy chuyện của chúng tôi chưa? - Dạ, bác nói gì thế ạ, – Tôi đứng dậy khỏi ghế,- Nghe m ọi chuyện này thú vị lắm chứ ạ!
Đó l{ sự thật. V{ Điôchiarép cũng tin như vậ y. - Thế thì tôi sẽ kể tiếp để anh nghe, chúng tôi đ~ tổ chức trưng b{y vũ khí chiế n lợi phẩm ở nhà máy chúng tôi như thế nào. Chắc ông có lẽ đ~ nghe nói về cuộc trưng bày này? – Điôchiarép hỏi Ximônốp, – Chúng tôi mở cửa trưng b{y v{o th|ng 10 năm 1943 và kéo dài khá lâu. - Có, t ất nhiên tôi có bi ết. Cuộc trưng b{y không chỉ thu hút sự chú ý c ủa mọi người trong nhà máy, – Ximônốp hưởng ứng câu chuyện. – Tôi nhớ, m ột k ỹ sư thiết kế đi cô t|c Cavơrốp về đ~ kể cho nghe những ấn tượng của cuộc trưng b{y để lại. Anh đ~ đặc bi ệt ngạc nhiên khi biết ở nh{ m|y đ~ tổ ch ức các buổi lên lớp lý thuyết
rất hấp dẫn do các kỹ sư thiết kế chủ chốt phòng thiết kế nh{ m|y Cavơrốp chủ trì. Anh đ~ dự mấy buổi lên lớp đó. - V}ng, v}ng đ~ có nhữ ng buổi lên lớp, nói chuyện, t ọa đ{m. – Điôchiarép tiếp t ục sôi nổi – Đ~ tổ chức các buổi nói chuy ện về tính năng kỹ chiến thuật đối chiếu giữa vũ khí của ta v{ vũ khí của địch thu được một c|ch sinh động, trực quan. Chúng tôi muốn không chỉ so s|nh qu}n Đức có những vũ khí gì, chúng ta có nhữ ng mẫu nào, mà còn muốn hi ểu rõ, chúng ta có th ẻ bổ sung thêm những gì, cần tìm ra những giải pháp thiết kế t ốt nhất nào.
Điôchiarép sửa lại chiếc |o, như muốn làm phẳng hai bên vai đ~ gù xuống rõ rệt, dịch chiếc ghế gần bàn, rồi ngồi xuống. - Cuộc trưng b{y, có thể nói, đ~ trở thành một địa điểm học t ập và là một hình thức học t ập mới. Số người đến tham quan đ~ lên đến v{i ba ng{n ngườ i. Mà lại t ổ chức trong thời chiến, nên người ta quý thời gian rỗi đến t ừng phút một.
Nên chăng, v{o thời điểm đó, Điôchiarép có thể t ự hào nói rằng cuộc trưng b{y đ~ chứng minh ưu thế tuyệt đối về vũ khí bộ binh của Liên Xô so với vũ khí tương tự của ph|t xít Đức v{ chư hầu. Sau này, theo tôi bi ết, thì cuộc trưng b{y cũng có cả ý đồ đó. Nhưng Điôchiarép lại chú t}m đế n khía cạnh khác. Học cả ở kẻ thù, l{ điều không có gì xấu hổ. Mặc dù ông biết rất rõ: Về tính năng chiến đấ u, vũ khí của ông trong thực t ế hơn hẳn vũ khí tương tự của kẻ thù. Điều này ngay c ả phía địch cũng đ~ nhiêu lần th ừa nh ận. V ề phía ta thì nhi ều chiến sĩ ngo{i mặt tr ận đ~ viết thư cảm ơn t ới nhà thiết kế lừng danh của chúng ta. Ở đ}y, cụ thể tôi muốn nói về khẩu trung liên x|ch tay ДП – “Điôchiarép – Bộ binh”, – được trang bị năm 1927 v{ trong gần hai chục năm đ~ trở thành loại vũ khí bộ binh t ự động chủ ch ốt c ủa chúng ta. Câu chuy ện v ề s ự hoàn thiện m ẫu trung liên trong thời chiến m{ ông đ~ kể lại cho ta nghe chính là v ề khẩu ДП n{y. … Chuyến công tác của chúng tôi ở đơn vị đ~ kết thúc. Đêm ấy, khi về khuya rồi, người sĩ quan liên lạ c gõ cửa phòng tôi, truyền m ệnh lệnh g ọi tôi gặp chánh nguyên soái pháo binh Vôrôn ốp. Toa công v ụ của ông đứng ở đường phụ. Tôi ph ải chạy về phía ga. Lệnh g ọi th ật b ất ngờ. Nguyên soái t ập trung chúng tôi l ại để t ổng k ết l ần cu ối k ết quả của chương trình thử ở đơn vị; sau đố chúng tôi sẽ giải t|n để tiếp t ục hoàn thiện mẫu, trước khi đưa đi sả n xuất hàng loạt.
Tôi bước vào toa. Tr ong toa ngo{i nguyên so|i, còn có hơn chục sĩ quan chỉ huy đại diện cho binh đo{n nơi tiế n hành thử. Theo tôi hi ểu, nguyên so|i đ~ ra những chỉ thị cuối cùng liên quan t ới việc sử dụng tiếp khí tài m ới. - V{o đi, nh{ thiết k ế, m ạnh d ạn ng ồi v{o b{n đi, – Th ấy tôi nguyên soái nói. – Các đồng chí sĩ quan muố n quen biết gần gũi với đồng chí. Còn đố i với Điôchiarép v{ Ximônốp thì họ đ~ gặp nhiều, riêng đồng chí là nhân v ật mới. – Nguyên soái m ỉm cười. – Đồng chí hãy kể về bản th}n, quê qu|n, qu}n độ i, kể thoải mái lần lượt như kể chuyện thân tình. Thế là tôi buộc “phải b|o c|o” tiểu sử của mình. Sau đó l{ h{ng loạ t những câu hỏi. Cuộc g ặp g ỡ chính thức đầu tiên trong đời tôi v ới m ọi người, kiểu như họp báo này, là do sáng kiến của nguyên soái Vôrôn ốp. hóa ra, các đồng chí sĩ quan muố n bi ết về quá trình chế t ạo vũ khí v{ về người sáng chế ra nó.
Tôi đ~ cố gắng hết sức làm thỏa mãn tính hi ếu kỳ vừa có tính ch ất nghề nghiệp vừa có tính đời thường của họ. Rồi tôi bỗng chợt hiểu rằng, nếu mình không nói gì v ề sự quan t}m giúp đỡ của nguyên soái thì th ật l{ vô ơn. Đ}y l{ một sự thật thiêng liêng, v{ cũng chính l{ “c}u chuyện t}m tình” m{ biế t nó thế nào cho xứng đ|ng đầy đủ, trước cả một t ập thể sĩ quan? - Xin c|c đồng chí hãy tha th ứ cho tôi, n ếu như có gì th|i qu| khi tôi nói về sự giúp
đỡ như tình cha con của nguyên so|i…
Chưa nghe hết câu, nguyên soái l ấy ngón tay dứ dứ dọa tôi, nói, c ố lấy giọng nghiêm khắc: - Ừ, thế thì hãy cùng với bố đi về M|txcơva. Đồ đạc sẵn s{ng đ}y rồi. Tôi cứ đo|n gi{ đo|n non m~i, tạ i sao nguyên soái b ảo tôi ở lại toa công vụ. Cùng với ý nghĩ n{y tôi thiếp đi trong tiếng đập đều đều của bánh xe. Sáng sớm khi gặp nguyên so|i, c}u đầ u tiên ông h ỏi tôi là: - Đồng chí định sắp xếp cuộc sống sắp t ới như thế nào? Tôi biết trả lời ông thế nào? Mà, nói chung tôi cũng ho{n to{n chưa nghĩ tới điề u này. - Báo cáo nguyên soái, tôi là m ột qu}n nh}n có hơn mười năm phụ c v ụ ngoài niên hạn, mọi quyết định tùy thuộc v{o nguyên so|i… – Sau một chút yên lặng, tôi nói.
V{ đ}y l{ lần đầu tiên tôi nh ận thấy Vôrônốp cau mặt. Có lẽ ông không hài lòng với câu trả lời của tôi: - Nhưng, nếu ta đưa ra cho ch|u hai đề nghị: Một là, ở lại phục vụ qu}n đội sẽ được phong qu}n h{m sĩ quan, hai l{ phụ c viên ra ngoài dân s ự, tiếp t ục công việc thiết kế. Cháu sẽ chọn phương |n n ào? Tôi không bi ết nguyên soái mu ốn nghe câu tr ả lời nào c ủa tôi. Có l ẽ ông nghĩ rằng tôi sẽ đi theo con đường của Điôchiarép đ~ chọn. Vừa là một quân nhân chuyên nghiệp v ừa là một nhà thiết k ế. Nhưng, thú thật, t ừ l}u tôi đ~ muốn trút bỏ b ộ quân phục. Lúc ấy tôi đ~ có vợ v{ hai con… Ngo{i ra, trướ c tôi là t ấm gương của Tôcarép và Ximônốp, những người thuần túy dân sự, nhưng vẫn được giới quân sự vị nể là những người làm công vi ệc nghiên cứu chế t ạo mẫu vũ khí kính trọ ng. - B|o c|o đồng chí nguyên soái, tôi mu ốn được phục viên, Tôi th ở dài một hơi. - Đó l{ tùy ch|u. Điều chủ yếu l{ ch|u đừng để mai một nghề thiết kế. Về đến M|txcơva, tôi sẽ nêu vấn đề n{y trên cơ sở thực t ế. – Và thật đột ngột, ông nói: – Cháu t ặng bác một t ấm ảnh làm kỷ niệm. Điôchiarép v{ Ximônốp đ~ để lại cho bác
ảnh v{ bút tích, còn ch|u thì chưa.
Nguyên soái có th ể cho gọi thợ ảnh đến, chụp ảnh đại lễ, như người ta vẫn thường l{m, để lưu giữ v ề sau: ông v{ trung sĩ -thiết k ế đứng bên cạnh. Nhưng, có thể vì ông đ~ ch|n chụp ảnh t ập thể, nên đ~ quyết định giữ ảnh của chúng tôi để làm kỷ niệm. - D ạ, cháu ch ỉ có một t ấm ảnh này, – Tôi rút t ừ túi chiếc |o varơi tấm ảnh tôi mặc quân phục đứng bên bản vẽ. - Được, thế là t ốt. Nhìn biết ngay là nhà thi ết kế đang l{m việc, – Vôrônốp tán th{nh… – Nét mặt đăm chiêu trong nỗi thống khổ của sáng t ạo. Về đến M|txcơva, trưởng phòng sáng ch ế, đại tá V.V Glukh ốp, giao cho tôi gi ấy công tác do nguyên soái ký, c ử tôi đi Uran để t ổ chức sản xuất hàng loạt súng tiểu liên mới. Đại tá Glukh ốp thông báo: - Toàn bộ tài liệu kỹ thuật t ừ nhà máy sản xuất loạt đầu để thử ngo{i đơn vị đ~ được giao cho các xí nghi ệp bên cạnh. Đồng chí sẽ làm việc ở một xí nghiệp mà trong những năm chiến tranh đ~ sản xuất nhiều loại vũ khí kh|c nhau, có nhiề u kinh nghiệm, trong việc t ổ ch ức các dây chuyền công nghệ, cơ động, thích ứng v ới nh ững thay đổi. - Bao giờ đi ạ?
- Ít ngày nữa. Khi n{o đến nơi thì b|o c|o về . Giờ thì tham quan th ủ đô đ~. Thăm viện bảo t{ng, thăm nh{ h|t. – Ông nhìn chăm chăm v{o mắ t tôi - Thế n{o? Không thích đi {? - Đề nghị đó tôi thích thật. Chỉ có điều l{, đến giờ tôi vẫn chưa rõ, đ~ giả i quyết xong vấn đề công tác thiết kế tài liệu của tôi chưa? Tôi không phải vô cớ mà lo lắng t ới v ấn đề này. Qua việc thiết k ế và chế t ạo kh ẩu tiểu liên mới thấy rằng: Cần phải có một phòng thiết kế bao gồm những nhà công nghệ, thiết kế, luyện kim, chế t ạo dụng cụ có kinh nghi ệm và những huyên gia đầu ngành khác. Một mình tôi không th ể đảm đương nổi. và, nếu như ở Cavơrốp, một số kỹ sư, công nh}n được t ạm thời qua để giúp đỡ công việc cho tôi, thì ở ch ỗ m ới l ại ph ải t ổ chức thành một đội, gồm những người đồng lòng nhất trí, cùng chung m ột ý tưởng sáng t ạo sẵn sàng cùng tôi lao vào giải quyết những nhiệm vụ kỹ thuật khó khăn, phức t ạp. Tôi trình bày nh ững băng khoăn của tôi với đại tá Glukhốp. - Lo lắng của đồng chí là dễ hiểu. – Đại t| đi đi lạ i lại trong phòng làm việc. – Tôi xin thông báo: V ấn đề thành lập phòng thiết kế mới đang ở giai đoạn quyết định. Tôi cho rằng, sau khi sản xuất tiểu liên ổn định, v{ được giao cho qu}n đội, đồ ng chí có thể t ập trung một đội riêng c ủa mình. Giờ thì cứ chuẩn bị sẵn danh s|ch trong đầu đi đ~. Còn nhiệm vụ chính bây gi ờ là nắm vững, ổn định sản xuất khẩu tiểu liên, đứa con cưng của đồng chí. Còn vấn đề gì nữa không? Không còn vấn đề gì n ữa, nhưng ý nghĩ lo lắng thì không buông tha tôi. Trướ c mắt, tôi sẽ tiếp t ục công tác ở một cương vị mới, với những người mới, chuẩn bị tài liệu kỹ thuật để sản xuất hàng loạt loại tiểu liên AK-47.
Nh{ m|y động cơ Igiepxk sản xuất loạt AK-47 đầu tiên. Sau đó to{n bộ tài liệu chuyển sang nhà máy chế t ạo máy- nơi từ đầu thế kỷ trước đ~ chế t ạo vũ khí – hồi ấy nó được gọi l{ Nh{ m|y vũ khí Igiép. Ngần ấy năm đ~ trôi qua. V{ ng{y hôm nay, tôi biế t khó mà chắt lọc kiến thức riêng thời trẻ của mình khỏi bề dày lịch sử và truyền thống l}u đời của nh{ m|y… Hơn nữa ta lại càng khó bi ết, khi thời gian m{ đang nói tớ i lịch sử nh{ m|y vũ khí Igiepxk 140 năm rồi, giờ đ}y đ~ sắp sang năm thứ 190. Nghĩa l{ tôi có 50 năm lịch sử chung với nh{ m|y n{y, nơi đ}y đ~ trở thành ngôi nhà quen thu ộc t ừ l}u đối v ới tôi. Một nửa thế kỷ! Thế m{ lúc đó, năm thì mười họa tôi mới tranh thủ được ít phút để ghé vào một căn phòng rộng tho|ng, nơi đó l{ bả o tàng trực thuộc phòng thiết k ế. Qu ản lý phòng
bảo tàng này là m ột thương binh, cựu sĩ quan, một ngườ i rất yêu lịch sử t ổ quốc… Thật tiếc là, tôi chỉ nhận ra được những điều trên khi mà ông không còn n ữa để mà thốt ra cậu: Xin cảm ơn cha!… Thấy tôi ngắm nghía bức tượng đ| cũ v{o phút rả nh rang, thoát khỏi những ý nghĩ bận rộn, ông nói: Igiepxk!… Đó l{ cả một sự nghiệp đặc biệt. trong ba năm sản xuất được 17 khẩu. Thế m{ sau đó chỉ trong một tháng làm được 500 khẩu. Có biết t ại sao không?… Bở i vì cuộc chiến với quân Pháp b ắt đầu, vũ khí của chúng ta đ~ được dùng ở Bôrôđinô. Thế rồi, nhà máy ti ếp t ục, tiếp t ục cho ra những lô vũ khí! Khi thì cho v{o kho, khi thì thẳng ra chiến hào, chi ến tuyến. Năm 1891 súng trường MOXIN ra đời mà chỉ sau v{i năm, một ng{y đêm đ~ sả n xuất ra được 1000 khẩu đủ để cho cả một sư đo{n! Mỗi ngày một sư đo{n đi qua cổng nhà máy, cái cổng mả anh mới bước v{o đó. Còn khi chiế n tranh ác liệt thì 2000 kh ẩu mỗi ng{y đêm! Hai sư đo{n! Hiể u không? Trong suốt thời gian chi ến tranh, t ại nhà máy ch ế t ạo Igiepxk đ~ sản xuất được hơn 11 triệu súng trường, một triệu súng lục, hàng ngàn súng máy trên máy bay, g ần 100 ngàn súng chống tăng Ximônốp v{ hơn 40 ng{n súng chống tăng Điôchiarép,
hơn 80 ng{n súng m|y lắp trên xe tăng…
- Nhớ chưa? – Ông hỏi gi ọng nghiêm khắc. Và tiếp t ục ra lệnh nghiêm khắc hơn – Giờ thì h~y quên đi. Nhữ ng con số bí mật. Bí mật quân sự đấy, hiểu chưa? Không nghi ngờ gì, v{o năm đó, tôi l{ người đầu tiên đến nh{ m|y v{ cũng l{ người cuối cùng rời khỏi nhà máy. Cạnh con đường đi qua đ~ chẳng còn một bóng người, trên con đườ ng dọc bờ sông cũng vắng ngắt. Có thể chính vì th ế mà, hình như bức tượng đồng bán thân của Anđrêi Phêđôrôvich Đirabin, ngườ i sáng lập ra nhà máy Igiepxk, t ừ trên bục cao đối diện với cửa tòa nh{ chính nh{ m|y, đứ ng kiêu hãnh, vẻ ngầm giễu cợt, chẳng còn ai mà nhìn n ữa, nên nhìn v{o chính anh… V}ng, ông nói, chính tôi đ~ x}y dựng nhà máy có một không hai này vào th ời đó. Khi ấy, ở Nga các tòa nhà công nghi ệp hai t ầng còn chưa x}y, thế mà ở đ}y lập t ức xây dựng những tòa nhà bốn t ầng – V}ng, chính tôi đ~ x}y dự ng. Còn anh bạn, anh định hiến t ặng gì cho T ổ quốc. Sau mấy năm, khi mọ i gian nan thử th|ch đ~ lui về sau và công vi ệc đ~ trôi chảy, vào lúc tâm hồn l}ng l}ng tôi đ~ s|ng t|c bốn c}u thơ. Bốn c}u thơ đ~ sai ý, m{ vì nó tôi đ~ bị phê phán. Bốn c}u thơ đó l{:
Đirabin, n{o h~y dị ch ra, Cho tôi cùng đứng bên hồ cạnh ông. Xây nhà máy, ông c ậy có Trời,
Còn tôi dựa v{o người mẹ hiền – Tổ quốc!
Tôi đ~ giữ kín khổ thơ n{y, chỉ mãi về sau, khi đ~ ngo{i s|u mươi tuổ i, vào cái tu ổi đ~ biết t ự nhìn nhận chính bản thân mình một các phê phán, kèm theo chút t ự gi ễu mình một cách thân ái – ch ỉ có đến lúc ấy tôi m ới “công bố” b{i thơ trên. Mỗ i khi có dịp vui vẻ cùng bạn bè, năm thì mườ i họa tôi cũng có nói tới b{i thơ, rằ ng, các bạn thấy thế n{o?… Sau đó b{i thơ n{y mộ t lần nữa làm tôi phải sửng sốt vì một ý kiến nhận xét của một bạn trẻ trước công chúng, r ằng tác giả phải t ự cao đến mức nào mới dám trò chuyện ngang hàng gần gũi như vậ y với Đirabin? Nhưng, thực ra để hiểu đúng b{i thơ n{y có lẽ cần phải trải qua cảnh thiếu thốn vật chất: đói rét, l{m việc căng thẳng ng{y đêm, thiếu ngủ nhưng vẫn khát khao khẳng định bản thân vì công việc chứ không phải vì c| nh}n mình… Không như ai đó biế t rất ít sau chiến tranh chúng tôi s ống như thế nào, bức tượng đồng có lẽ còn nhớ rõ m ột lần khi tôi đi ra cổ ng thì kiệt s ức, đôi ch}n độn bông cố lê đến bệ đ{i. Có lẽ người tôi đ~ đổ, nếu vai không k ịp t ựa v{o đế. Tôi c ứ đứng cạnh tượng như vậy cho đỡ mệt… Chúng tôi bên nhau! Dần dần tôi đ~ hình th{nh được đội công t|c đúng như tôi từng mơ ướ c. Có thể nói biết bao nhiêu v ề t ừng thành viên c ủa đội! Vôlôđia Grubin – m ột người đầy hào hứng trong công việc, Vlađimir Vaxilievich – m ột kỹ sư xuất s ắc, m ột người có thể đốt cháy ngọn l ửa nhiệt tình của c ả nh ững c|i đầu h ầu như đ~ nguội l ạnh, vô vọng nhất. Alecxêi Đmitrierich Kracusin một ngườ i có tính t ự lập cao, h ồi ấy chúng tôi gọi l{ “anh ch{ng quê mùa”, bấ t cứ chuyện gì anh cũng đề u có ý kiến riêng của mình, hăng h|i bả o vệ bằng được ý kiến ấy. Valêri Alêxandrôvich Kharc ốp về đội muộn hơn một thời gian, anh l{ “bộ b|ch khoa to{n thư sống” củ a chúng tôi; Vatali Nhicôlaevích Pusin m ột người điềm tĩnh, cở i mở và chắc chắn. Đôi lúc, bấ t chợt tôi nghĩ rằng không nên đưa nhiề u nhân vật quá vào cuốn sách là t ừ một thời đ~ qua l}u rồi…. Nhưng… ta h~y d{nh cho mỗi ngườ i m ột dòng ngắn ngủi, ân tình làm k ỷ niệm t ốt lành. Cho cả những phụ nữ đ|ng yêu trong đội của chúng ta, đó l{ Phaina Beloglazova kỹ thuật viên thiết kế và Valentina Zinoviera nhân viên can v ẽ. Những kỷ niệm về những người thợ Uran chân chính nh ất sẽ còn lại mãi mãi v ới con cháu. Phải nói rằng thời ấy họ được coi trọng hơn l{ thờ i buổi đầy biến động bây giờ.
Ở đầu ngôi nhà ở, c ạnh Hội đồng b ộ trưởng, có một hình vẽ toàn thân một người đ{n ông r}u tóc, lực lưỡ ng mặc chiếc áo dài Sa hoàng th ời cổ kết ngù kim tuyến. Chiếc |o d{i đó, l{ sự biểu hiện lòng kính trọng của một cường quốc đối với những người thợ tài ba, sự biểu hiện lòng biết ơn của đồng bào. Tất cả chúng tôi t ừ l}u đ~ quen với hình thượng ngườ i th ợ r}u tóc, nhưng đôi lúc dừng l ại v{ nghĩ: Phải chăng người th ợ phay tinh xảo Gali, người th ợ ti ện v ạn năng Nhicôlai hay ngườ i th ợ ngu ội
vĩ đại Paven Epghênhi … không xứng đ|ng với hình tượng n{y chăng? Không, tấ t c ả ấm |o tượng trưng cao quý n{y, không chỉ riêng họ mà cả họ đều rất xứng đ|ng với t ấm nhiều người th ợ khác nữa của nh{ m|y “chế t ạo máy Igiepxk” cũng có quyền đó. Thế nhưng ng{y nay, do sả n xuất suy giảm, do những biến động hỗn loạn, do nợ lương triền miên mà t ừ lâu họ đ~ phải mặc chiếc áo khác: Chiếc |o “giật gấu v| vai”. Nhưng thôi, ta hay trở về năm mươi năm trước. Đội công t|c, ngườ i nọ kế tiếp người kia dần dần cũng được l ựa ch ọn đủ. Đôi khi cả đội đều ph ải ở lại làm việc cho đến quá nửa đêm, nhưng thường thì tôi cho anh em v ề sớm hơn. Lúc ấ y tôi với b ức tượng đồng Đirabin lạ i nh ập h ội với nhau… nếu là mùa hè, tôi ng ồi bên bờ h ồ, ngắm nhìn m~i l{n nướ c phẳng lặng m{ phía dưới là nấm mồ vĩnh viễn của con đại bàng hai đầu vốn đặt trên tháp, nóc tòa nhà chính c ủa nh{ m|y. Năm 1919 công nh}n c|ch mạng đ~ th|o nó xuống v{ cho chìm dưới hồ một cách trọng thể. Lúc bấy giờ, tôi đ}u có thể tượng tượng được rằng, sau gần năm mươi năm v{o dịp tôi thọ 75 tuổi, đích th}n tổng thống đ~ về Igiepxk choàng vào ng ực tôi chiếc băng đỏ có hình con đại b{ng hai đầ u, bên cạnh hai ngôi sao Anh hùng lao độ ng Xã hội chủ nghĩa Liên Xô, ông gắ n vào áo tôi chi ếc huân chương lớn, của thời cũ, “Có công trạng với Tổ quốc” trên đó có khắc dòng chữ “Nghĩa vụ. Trung th{nh. Công ích”
Đương nhiên, tôi đ}u có mơ ướ c về điều n{y… tôi cứ hình dung ra, c ả một sư đo{n rầm rập bước chân t ừ cổng nhà máy tiến qua tượng Đirabin, trên vai mỗi người lính lấp lánh ánh thép c ủa kh ẩu AK-47. V{ chính Đirabin chứ không phải ai kh|c l{ ngươi đầu tiên duyệt cu ộc di ễu binh vô hình n{y… chúng tôi, trong thực t ế, t ừ l}u đ~ l{ của nhau! Tôi sửa lại c}u đầu b{i thơ cũ: “Thưa Đirabin, xin h~y dị ch ra…”
Điều n{y tôi đ~ hiể u t ừ l}u: Đối với lịch sử cần phải tôn trọng, nên tôi phải xưng hô tôn trọng với Đirabin! Hơn nữ a với lịch sử nước Nga, thì lại càng phải tôn trọng. Ngày nay, bất hạnh thay, nhiều người không hiểu điều n{y… Việc hoàn thiện kh ẩu AK-47 theo nh ận xét sau khi th ử ở đơn vị chẳng d ễ dàng gì, v{ thường là không tìm ra gi ải pháp kỹ thuật. Có những trường hợp do qua cẩn thận, một chuyên gia n{o đó nhất đị nh không cho thử nghiệm một thay đổi n{o đó, viện cớ “đ~ quyết v{ đ~ ký” thì cứ th ế mà làm. Th ế là lúc ấy, để đạt được m ục đích, chúng tô không chỉ kiên trì thuy ết phục mà có khi còn phải dùng đến cả mẹo vặt nữa. Chẳng h ạn có một trường h ợp th t hế này. Chúng tôi d ự định thảy đổi ổ khóa nòng – một trong nhưng chi tiết chủ yếu của khẩu tiểu liên. Nó không đạt yêu cầu về kiểu thiết kế. Việc thay đổi này kéo theo ph ải thay đổi hàng loạt các chi ti ết lắp vào nó.
Chúng tôi làm mẫu, sau đó thử đạt kết quả t ốt. ốt. Nhưng Xukhitxki kiên quyết phản đối, không cho áp dụng. Chúng tôi không th ể thuyết phục nổi ông. Chúng tôi đợi ông nghỉ phép, liền đưa bản vẽ sang bên công ngh ệ. Vốn t ừ lâu họ đ~ ủng hộ kế hoạch của chúng tôi và ch ỉ chờ thời điểm bắt đầu. Họ làm rất nhanh, các chi ti ết mới đ~ được sản xuất. Khi hết phép, trở về đơn vị thì đại diện quân sự đ~ ở vào thế việc đ~ rồi. Biện pháp này là bất đắc dĩ, nhưng ngườ i ta nói: Mục đích biện hộ cho phương tiện. Tôi không mu ốn nói rằng đại diện qu}n đội không có nh ững luận cứ cơ bản của mình. Ông cho rằng kết luận của ủy ban nghiệm thu nói rất rõ ràng, m ọi mặt đ~ được giải quyết đầy đủ và không c ần phải thay đổi gì. Tuy th ế, tôi vẫn yêu quý ông như một người bạn và kính tr ọng ông như một chuyên gia vũ khí th{nh thạo, mặc cho bao lần nổi nóng và tranh lu ận với nhàu! Một lần vì cạn kiệt vốn “văn xuôi”, tôi đ{nh nhắ c nhở ông qua mấy vần thơ vui: Nếu Trái
Không
kế tim
xót
Nhà máy Thần kinh anh co gi ật.
hoạch anh
xa bị
bị thế
đau sốt
đứt, nào nhức cao
Xukhitxki tr ả l ời b{i thơ n{y bằ ng m ột đề ngh ị “buổi t ối liên hoan t ập ập trung”… Dù có thế n{o chăng nữa, thì chúng tôi v ẫn mãi mãi là b ạn bè, kể c ả sau khi ông v ề hưu cũng thế.
Lao động của chúng tôi đ~ đạt đượ c kết qu ả – t ập th ể nh{ m|y vũ khí l}u đời nh ất trong một thời gian ngắn đ~ bắt đầ u sản xuất tiểu liên AK-47 v ới một trình độ kỹ thuật cao vào thời đó. Đầu năm 1949 do có th{nh tích lao động tôi đượ c nhận giải thưởng Xtalin. Tôi bi ết tin này t ừ b|o chí. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ rõ khi ấy tôi đ~ xúc động biết bao, khi đọc những dòng n{y: “Giải thưở ng Xtalin hạng nhất được t ặng ặng cho thượng sĩ Kalasnhicốp Mikhain Timôphêêvich do vi ệc sáng chế mẫu vũ khí”. Giải thưở ng này cũng được trao cho c|c đồng nghiệp c ủa tôi: Điôchiarép v{ Ximônốp do đ~ s|ng chế được các mẫu mới vũ khí bộ binh. Tôi nhận được bi ết bao lời chúc m ừng t ừ gia đình, bạn bè, đồng chí, đồ ng nghiệp. Rất nhiều người đ~ ng ạc nhiên vì m ột người thiết k ế tr ẻ tu ổi và quân hàm th ấp như tôi m{ được nhận một giải thưởng cao quý đế n thế. Mọi người đ~ giúp đỡ, độ ng viên cổ vũ tôi đ~ chia sẻ cùng tôi niềm vui sướng này. Giải thưởng đó công nhận thành quả lao động không chỉ của riêng tôi mà còn c ủa cả những người đ~ tham gia v{o qu| trình hình thành nên nhà thi ết kế-vũ khí. Tất cả những điều này nói lên r ằng qua quá
trình lao động nhiều năm, một nét đặc điểm riêng của tôi đ~ được x|c đị nh. Bây giờ trước mặt tôi không còn vấn đề: “Làm gì tiếp theo! Tiếp theo như thế n{o?”. Con đường đi đ~ rõ. Trong năm đó tôi đượ c làm thủ t ục xuất ngũ. Igiepxk trở th{nh nơi ở cố định c ủa gia đình tôi. Trước đ}y việc thay đổi chỗ ở của tôi giống như đổi buồng trong khách sạn hay ký túc xá. Còn bây gi ờ, chúng tôi l ại chuyển t ừ trường bắn ngoại ô M|txcơva về Igiepxk. C ần phải ổn định cuộc sống và kinh t ế gia đình. Lúc n{y chúng tôi đ~ có hai con g|i. Vợ tôi lo l ắng mọi chuyện để thu xếp ổn thỏa chỗ ở mới. Nói chung là công vi ệc gia đình từ nội trợ đến giáo dục con cái, một mình cô ấy gánh vác t ất cả, vì tôi thườ ng b ị các vấn đề mới trong công việc cuốn hút, mãi t ận ận đêm khuya với về nhà. Khi tiến hành sản xuất hàng loạt, không có nghĩa l{ không còn phả i làm các công việc về thi ết kế. Các kỹ sư công nghệ và thiết kế phải thường xuyên làm việc để nâng cao quy trình công ngh ệ, s ử d ụng các phôi chi ti ết tiến b ộ hơn, n}ng cao chất lượ ng sử dụng của vũ khí v{ còn nhiề u vấn đề khác nữa. ngoài ra còn ph ải làm các mẫu cho
tương lai.
Dần d ần, trước nh n hững nhà thiết k ế vũ khí chúng tôi nả y sinh một nhiệm v ụ m ới – nhất thể hóa các loại vũ khí. Vũ khí bộ binh trang bị cho qu}n đội có ba m ẫu hoàn toàn khác nhau: kh ẩu AK-47 c ủa tôi, kh ẩu trung liên xách tay c ủa Điôchiarép v{ khẩu cácbin của Ximônốp. ba loại chung một loại đạn nhưng về cấu t ạo lại không có gì chung cả. Cả vấn đề nạp đạn cũng giải quyết kh|c nhau. Trung liên dùng băng, c|cbin hộp đạn liền mười viên còn ti ểu liên hộp đạn ba mươi viên th|o rời đượ c. Cả ba m ẫu t iểu đội và c ấu t ạo khác nhau c ủa chúng làm cho vi ệc h ọc nay đều có mặt trong một ti t ập, nghiên cứu và sử dụng chúng trong chiến đấu gặp nhiều khó khăn, phứ c t ạp. Các nhà thiết kế vũ khí qu}n sự phải khắc phục, giải quyết vấn đề này. Tổng cục ph|o binh đ~ tuyên bố cuộc thi ch ế t ạo mẫu súng thống nhất dùng đạn trung liên. T ất cả các phòng thi ết kế đều tham gia công việc này. Phòng thiết kế Đôchiarép dự định giải quyết vấn đề đặt ra trên cơ sở khẩu trung liên. Ximônốp cũng bắt đầu triển khai công việc.
Đ~ có một số thiết kế mới. M ột trong những thiết kế khá nhất là của nhà thiết kế nổi tiếng Tula Carab ốp. Chúng tôi thiết kế mẫu mới trên cơ sở khẩu AK-47 của tôi. Không phải vì chúng tôi không thể thiết kế mẫu mới, việc đó chúng thôi đ~ thường làm. Mà b ởi, đến thời gian
này khẩu tiểu liên của chúng tôi đ~ chứ ng minh được có độ bền cao và có c ấu t ạo đơn giản.
Điều kiện cuộc thi nêu ra là ngoài s ự đồng nhất còn phải giảm được trọng lượng của mẫu v{ n}ng cao độ ch ụm khi bắn. V ấn để nh ất th ể hóa luôn l{ mơ ước thiết tha của c|c nh{ vũ khí. Nhưng thự c hiện ước mơ đó như t hế nào? Vì m ỗi một loại mẫu đều có những đặc điểm, chức năng riêng của nó… Tuổi thọ của tiểu liên hầu như nhỏ hơn hai lầ n so với tuổi thọ súng máy, do v ậy nêu không cải tiến một số chi tiết thì không thể đồng nhất với các chi ti ết đó của súng máy. Chúng tôi đ~ tìm ra c|c giả i pháp thiết k ế kh|c nhau để tìm con đường đi đến mục tiêu đ~ định. Chúng tôi làm m ột chiếc máy thử đặc biệt để thử nhanh các chi tiết này mà không phải bắn. Sau khi kiểm tra trên máy, các chi ti ết đó mới lắp vào súng để bắn thử, bắn không tiếc đạn. Đôi khi kết quả trên máy thử và bắn thật cho những kết quả tr|i ngược nhau. Do vậy kết quả cuối cùng chỉ được đưa ra sau khi bắn thử. Không dễ gì giải quyết được vấn đề n ạp đạn chung cho hai lo ại súng khác nhau v ề công dụng chiến đấu. Băng đạ n và hộp đạn thật khó mà chung nhau làm m ột, rồi hôp đạn c ố định và tháo rời cũng thế. Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu luôn một s ố phương án h ộp đạn có dung tích lớn hơn cho khẩu trung liên tương lai. Điề u này là c ần thiết bởi trong hộp l{ băng 100 viên đạ n, còn đối với chúng tôi n ếu có ít hơn thì cũng chẳng đ|ng kể. nếu l{m kh|c, băng sẽ bị gạt ra. Chúng tôi cũng đ~ thử phương |n l{m hộp đạn tròn chứa được 75 viên d ạn. Làm xong, chạy đi thử. Kết quả t ốt, không bị hóc. Độ bền đạt yêu cầu. Kết luận mẫu thỏa mãn các yêu c ầu đề ra. Hộp nòng của ti t iểu liên đượ c s ản xuất b ằng loại máy phay hay bằng phương ph|p hàn – dập bằng thép l|, sau đó t|n bắ ng các chi ti ết khác. Bộ giảm t ốc ốc đặc biệt thời gian giữa các chu k ỳ được lắp thêm v{o đ~ l{m tăng đang kể độ chụm khi bắn. Bắn ốt hơn trên tay – mà chúng tôi gọi là bắn ở “tư thế không ổn định” đ~ được cải ti ết t ốt nhờ có lắp thêm bộ bù ở mi ệng nòng. Tất c ả các chi ti ết bu ộc ph ải tháo lắp ở đơn vị, đều được làm thống nhất để có thể lắp lẫn cho trung liên và ti ểu liên. Khi kể về điều n{y, tôi luôn nghĩ rằ ng, số ph ận và lịch s ử đ~ giao phó cho nh{ m|y chế t ạo ạo cơ khí Igiepxk (IZƠMAS) trở th{nh nơi khai s|ng ra phương ph|p nhấ t thể hóa trong nước và nói chung c ả trên quốc t ế. Tại sao nói như vậ y?
Người k ế t ục k ỹ sư Đirabin l{ tướ ng Ê rơnôlai Gren tổ tiên t ừ nước Xcốtlen xa xôi đ~ rất quan tâm t ới việc phát tri ển nghề thủ công chế t ạo ạo vũ khí của d}n địa phương. Với m ục đích n{y, ông lập ra m ột b ảng ghi công đặc bi b iệt, trong đó ghi rõ: Bao nhiêu khẩu do thợ nước ngoài làm ra, bao nhiêu kh ẩu do thợ Nga l{m ra. Sau đó kế ti ếp là chuyên gia ch ế t ạo ạo vũ khí đức Philíp Bôđê. Ông l{ một ngườ i thợ t{i ba. Năm 1824
khi Ho{ng đế Alêcxanđr I đến thăm Igiepxk ông đ~ tặng ho{ng đế hai khẩu súng lục chạm hoa văn bằng vàng do chính ông làm ra. Hi ện nay hai khẩu súng n{y được lưu giữ trong kho vũ khí của ảo t{ng Erơmitagê. Đ}y không phả i là công tích chính c ủa ông. Điều cốt yếu l{ ông đ~ nhất thể hóa được các chi tiết do những người thợ Igiepxk làm ra.
Ở kho vũ khí Igiepxk có một tiết mục thường được trình diễn cho các vị “kh|ch cao cấp” hoặc cho các k ỹ sư đồng nghiệp xem: Khoảng hai ba ch ục khẩu súng được th|o tung ra, để ngổn ngang lẫn lộn như qu}n cờ đôminô, sau đó tiế n hành lắp lại. Người xem thật ngạc nhiên khi th ấy chi tiết nào chi tiết nấy lần lượt được lắp bằng hết! Tiến sĩ lịch sử Epghênhi Sumilôp, tác gi ả cuốn sách viết về những người đồng hương kh| hay “Th{nh phố trên sông Igiơ” kể rằng: “Trên tấm biển bằng đồng t ừ cây thập t ự của người Đức t ừ trần ở đ}y năm 1841 có khắc dòng chữ: “Đ~ phục vụ Tổ quốc t ại nh{ m|y vũ khí Igiepxk 34 năm, 4 th|ng 17 ng{y”. Từ bấy đến nay t ổ quốc chúng ta đ~ có nhiều đổi thay!… Lòng trung th{nh trướ c kia được coi như niề m vinh dự, còn ng{y nay đố i với nhiều người, đó chỉ là công việc, hay theo cách hi ểu đúng mốt nhất, đó là doanh nghi ệp. Và vì th ế tôi rất muốn kính cẩn nghiêng mình với lòng biết ơn v{ tưởng nhớ những bậc tiền nhân mà chính cuộc đời họ là một t ấm gương của những phẩm gi| nghĩa hiệ p.
… Khẩu ti ểu liên mới làm ra có một tr ọng lượng nhẹ hơn nhiều. V{ độ ch ụm cũng kh| hơn. Chiếc lưỡi lê hai c ạnh sắc được thay thế bằng lưỡi lê ngắn kiểu dao găm, thuận tiện trong sử dụng. Mỗi người lính có thể dùng con dao n{y để dắt dây thép gai một cách dễ dàng, kể cả khi nó có dòng di ện chạy qua. Giai đoạn cải tiến mẫu mới ở nh{ m|y đ~ kết thúc, chỉ còn chờ cuộc thi. Giống như các cuộc thi khác nó sẽ được tiến h{nh theo c|c vòng để dần dần loại bớt c|c đầu thủ cạnh tranh. Và t ất nhiên, sẽ căn cứ theo kết quả thi của t ừng nhóm và tiến hành hoàn thiện tiếp theo. Vị trí thi l{ trường bắn ngoại ô M|txcơva. Ở vòng thi cuối cùng chúng tôi ch ạm trán với nhà thiết kế Tula Carab ốp. Ông mang đến cuộc thi các mẫu ti ểu liên v{ trung liên x|ch tay đ~ cả i tiến t ốt. Ông l{ người đầ u tiên chế t ạo vũ khí có khóa r~nh m|ng nử a t ự do, khuôn dập các chi ti ết của ông thuộc loại cổ điển. Carabốp đương nhiên l{ một kỹ sư rất mạnh và một nghệ nhân của nghề vũ khí. Tôi còn đượ c g ặp ông nhiều l ần sau này, và m ỗi l ần g ặp ông đều để lại cho tôi nh ững ấn tượng t ốt đẹp nhất về con người và công việc của ông.
Nhiều người đ~ dự tính rằng ông sẽ l{ người chiến thắng trong vòng thi cuối cùng. Quả thật cuộc thi đua diễn ra ngang s ức và chỉ do chúng tôi áp d ụng giải pháp thiết kế nên mới vượt qua được mẫu của ông. Thế là t ừ năm 1959 qu}n đội được trang bị tiểu liên AKM và trung liên RPK dùng chung loại đạn cỡ 7,62mm. Chữ “M” đứng sau tên khẩu súng AKM của tôi nghĩa l{ “hiện đại hóa”. Khẩu tiểu liên mới cũng đạt được các phẩm chất chủ yếu của khẩu cácbin, cho nên không s ản xuất loạt súng này nữa. Bây giờ trong một tiểu đội qu}n đội chỉ trang bị hai loại súng, chung nhau m ột loại đạn, thay vì ba loại kh|c nhau trướ c kia. Nếu chỉ kể các chi tiết và cụm chi tiết chủ yếu, thì 100% chúng có th ể lắp lẫn cho nhau, còn l ại 1% là không l ắp l ẫn được đó l{ các chi tiết nh ỏ. Nh ờ vậy việc sử dụng vũ khí trong qu}n đội được nh ẹ nh{ng hơn v{ đem lại hiệu quả kinh t ế lớn. Một nhóm lớn công nhân, nhân viên k ỹ thuật đ~ được Chính ph ủ t ặng thưởng vì “có th{nh tích củng cố sức m ạnh c ủa đất nước chúng ta”. Còn tôi thì được t ặng danh hiệu “Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa”. Các mẫu vũ khí mới xuất hiện trong qu}n đội ta đ~ đượ c hoan nghênh nhi ệt liệt. Khi có mặt ở c|c đơn vị qu}n đội và khi g ặp g ỡ v ới cán b ộ, chiến sĩ, tôi đ~ nhiề u l ần được ch ứng kiến điều này. Mỗi chuyến đi như vậy là một l ần t ận m ắt được th ấy anh em chiến sĩ giữ gìn cẩn thận và yêu m ến vũ khí bộ binh của t ổ quốc đến nhường nào. Mỗi cuộc gặp gỡ như vậy là một lần được nạp thêm năng lượng m ạnh mẽ để tiếp t ục hoàn thiện những mẫu vũ khí, khí t{i quốc phòng mạnh hơn nữa. Tất nhiên kỹ thu ật tên lửa bắt đầu phát triển, thì việc đ|nh gi| gi| trị lao động c ủa chúng tôi, những nhà thiết k ế vũ khí bộ binh có thay đổi nhiều. Điều đó luôn l{ như vậy: Hướng m ới s ẽ phát triển ồ ạt v{ hình như l{ muốn lấn át những người đi trướ c. Và chỉ sau một thời gian “đua tranh” mới thấy rõ ràng, c ả hai hướng cần phải phát triển song song, bổ sung cho nhau, không l ấn lướt và không loại trừ lẫn nhau. Nhưng để hiểu được điều n{y thì đ~ phả i trải qua h{ng năm, nhiều năm. V{ trong nhữ ng năm n{y đ~ có biết bao điều đ~ đượ c nghe thấy, trải qua.
Tôi muốn kể một câu chuyện để khẳng định điều đang buồn n{y. Đấ y là vào nh ững năm 60. Chúng tôi, những nhà thiết kế – ch ế t ạo vũ khí gồm tôi, Ximônộp, Vlađimir, Xtrenxkin, Macar ốp được mời t ới khóa hu ấn luyện sĩ quan cao cấp “Xạ kích” để gặp gỡ v ới các học viên và giáo viên c ủa khóa học. M ỗi chúng tôi đều k ể tóm t ắt v ề công việc của mình. Sau đó l{ c|c gi|o viên ph|t biể u. Một trong số gi|o viên hướng về phía chúng tôi nói: “Cảm ơn c|c đồng chí đ~ kể cho chúng tôi nghe về các công việc của mình. Nhưng xin c|c đồ ng chí hãy trả lời chúng tôi trong điề u kiện hiện nay, có ai cần đến “kỹ thuật hang động” của c|c đồng chí đ}u?”. Thậm chí chúng tôi chưa tìm ngay đượ c câu trả lời. Sự thật là, diễn giả tiếp theo định sửa chữa tình huống cho rằng lời phát biểu c ủa bạn mình là sai lầm, nhưng từ “hang động” l{ bằng chứng của lối tư duy mới hình thành trong nh ững sĩ quan trẻ, và của c ả c|c sĩ quan không còn trẻ nữa. Sau trường hợp này không lâu, trong m ột lần Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Liên Xô Đơmitơri Phêđôrôvích Uxchinốp đến thăm nh{ m|y chúng tôi, chúng tôi đ~ kể cho ông nghe câu chuy ện v ề “kỹ thuật hang động” ở khóa học n ọ. Ông mỉm cười, v{ hướng về phía những người có mặt, ông nói: “Tất nhiên đ}y l{ mộ t thí dụ về th|i độ hết sức sai lầm của người gi|o viên đối với loại hình vũ khí quan trọ ng này. Anh ta không hi ểu được rằng, trong khi ch ỉ thích một loại vũ khí n{o đó thì chính anh ta đ~ bị đ|nh bằng m ột loại vũ khí kh|c! Cần phải sửa sai cho nh ững sĩ quan có quan niệm như thế, nhất lại là
gi|o viên sĩ quan!”
Lời nói của ông đ~ động viên tôi, xóa bỏ dấu ấn “không có tương lai” trong nghề nghiệp sáng t ạo c ủa tôi. Vì chính vào th ời gian này, m ột s ố lượng lớn các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực vũ khí bộ binh chúng t ôi đ~ chuyển đi. Người thì sang ngành chế t ạo ôtô, người thì sang ngành chế t ạo tên lửa, điện t ử… Họ đ~ tìm cho mình mộ t cách lựa chọn, thuyết phục họ chỉ vô ích. Nhưng để mất những người bạn chiến đấu có trình độ thì thật là tiếc! Chỉ còn lại nh ững người th ật sự nhi ệt tình với sự nghiệp c ủa chúng tôi và lớp thanh niên trẻ sẽ được bổ sung cho phòng thi ết kế trong thời gian t ới. Lớp trẻ đó ng{y nay đ~ trở thành những nhà thiết kế giỏi. Sau khi k ết thúc công việc nhất thể hóa vũ khí bộ binh, một hướng m ới trong hoạt động của chúng tôi đ~ được m ở ra – đó l{ giai đoạn hai, hoàn thi ện h ệ thống vũ khí bộ binh. Các nhà quân s ự đ~ ho{n thiện các yêu cầu kỹ-chiến thuật để chế t ạo kiểu súng máy duy nhất dùng đạn súng trường. Loại m ới sẽ thay thế t ất cả các loại đang t ồn t ại trong các quân binh ch ủng của qu}n đội. Đ}y l{ một nhiệm vụ cực kỳ phức t ạp, khẩu súng máy mới phải hội t ụ được t ất cả những phẩm chất chủ yếu của các loại súng m|y xe tăng, xe bọc thép, súng máy trang b ị cho đại đội và cả súng đại liên nữa. Khi các t ập thể thi ết kế của các nhà máy ch ế t ạo vũ khí bắt đầu ch ế t ạo khẩu trung liên đồng nhất thì ở phòng thiết kế nhỏ của chúng tôi cũng tiến hành hoàn thi ện
khẩu trung liên c ỡ đạn trung gian v ốn đ~ có từ trước. Đương nhiên, chúng tôi vẫ n nắm vững công việc chế t ạo mới của c|c đơn vị kh|c. Chúng tôi được biết rằng nhà m|y vũ khí Tula đ~ l{m được nhiều vi ệc theo hướng n{y v{ đ~ bắt tay vào sản xu ất một lô lớn trung liên đồng nhất. Người thiết k ế chính kh ẩu trung liên đồng nhất c ủa Tula là Grigôri Ivanôvích Nhikítin, m ột nhà chế t ạo vũ khí có kinh nghiệ m mà chúng tôi t ừng quen biết. Khẩu trung liên đồ ng nhất của ông đ~ qua thử nhiệm nhiều lần và cho kết quả t ốt. Nhưng ph|t hiện ra một đặc điểm “nhỏ” của m ẫu: sau khi b ắn, phải nhúng súng v{o nước, sau đó lạ i ti ếp t ục b ắn như lần đầ u, b ắn phát một hai ba viên. Đồng thời, sau m ỗi l ần bắn lại ph ải lên cò, hai ba l ần liên t ục. r ồi sau đó khẩu trung liên mới làm việc bình thường. Vậy thì thiếu sót này là nghiêm tr ọng hay không nghiêm trọng? Các nhà quân sự cho rằng thiếu sót này là nghiêm tr ọng, không thể bỏ qua được và yêu c ầu phải khắc phục. Nhưng c|c nh{ thiết kế Tula lại không quan t}m đúng mức t ới nhận xét này, vì vậy các nhà quân sự quyết định đưa tập thể chúng tôi vào cuộc. H ọ cho rằng điều này sẽ có t|c động t ới c|c nh{ vũ khí Tula: “Nếu Tula biết các anh bắt tay vào việc thì họ cũng sẽ nghiêm túc, khẩn trương khắc ph ục thiếu sót của khẩu trung liên của họ”. Chúng tôi làm việc trong phòng thi ết kế của nhà máy thành một nhóm riêng. T ất cả đều còn trẻ. Tôi già nh ất , đ~ l{ “nh{ vũ khí” l~o th{nh cũng chưa đế n bốn mươi tuổi. Một t ập thể trẻ, khỏe, vững mạnh, có học thức, có tinh th ần chiến đấu, t ất cả thành một khối thống nhất. Bên cạnh những cựu binh nhiệt thành của nhà máy mà tôi đ~ nói tới: Crupin, Pusin, Criacusin, gi ờ thêm những gương mặt mới: Xtarsép, Camzôlốp, Côriacôpsép, Iuphêrép. Còn ở ph}n xưởng thí nghiệm, những công nhân có kinh nghiệm nhất: Bukharin, Boocgđanố p, Gabra, Khmanốp vẫn tiếp t ục làm việc sáng t ạo. Tất nhiên đấ y chỉ là một số rất ít những người đ~ l{m việc với tôi., h ọ là hạt nhân, là màu s ắc của đội. Đó l{ những người cùng làm vi ệc với tôi t ừ nhất thể hóa tiểu liên đến khi nhất thể hóa trung liên. Chúng tôi suy nghĩ nhiề u về việc phải bắt đầu tư kh}u n{o. Đ}y l{ mộ t nhiệm vụ mới. Khi biết được mẫu trung liên c ủa Nhikitin có h ộp nòng phay t ừ phôi rèn nặng, chúng tôi quy ết định d ập b ằng thép l|, sau đó h{n v{ t|n khung giống như c|ch l{m hộp nòng tiểu liên. Những cơ cấu, bộ phận chủ yếu quyết định t ới chất lượng làm việc, chúng tôi cũng bắt đầu làm theo phương ph|p tương tự đ~ được kiểm nghiệm ở các khẩu kh|c. Đồng thời vẫn tìm tòi những giải pháp mới m{ trước đó chưa được dùng t ới. Chúng tôi ki ểm tra kỹ c|c phương ph|p n{y, v{ lập t ức loại b ỏ, n ếu không thỏa mãn ở kh}u n{o đó. Cứ thế thời gian trôi qua. M ải mê với c|c phương |n mẫu trung liên thống nhất chúng tôi thường xuyên làm việc cho đến bình minh của một ngày mới. Khẩu trung liên thống nhất đ~ được chế t ạo nhanh chưa từng thấy. Chỉ chưa đầy một năm, nó đ~ được hoàn thành. Chúng tôi ti ến hành bắn thử tương đối phức t ạp, đồng thời còn thử cả độ bền.
Tôi gọi điện về M|txcơva xin phép được chế t ạo m ột loạt lớn để ti ến hành thử so sánh với mẫu của Nhikittin. Trên đồ ng ý. Một ủy ban kiểm tra đặc biệt được thành lập, có chức năng tiến hành kiểm tra so s|nh trong điều kiện khí hậu khác nhau ở các quân khu và các binh ch ủng. Các chương trình đặc bi ệt có tính đến phương ph|p thử n ặng nề nh ất đ~ được chuẩn b ị. Mỗi phòng thiết k ế được c ử ra s ố lượng đại di ện ngang nhau. Đặ c bi ệt, trong khi thử luôn được nhắc t ới việc đảm bảo nguyên t ắc công bằng, không cho phép s ự khác biệt. Cuộc thử bắt đầu. T ất c ả nhân viên nòng c ốt của tôi t ản đi c|c qu}n khu. Tôi ở lại Igiepxk làm công việc được gọi l{ “t|c chiến”; nhận tin t ức về quá trình th ử c|c nơi gửi v ề, cho ý kiến gi ải quyết và gợi ý, và trong những trường hợp đặc bi ệt thì xuống qu}n khu “có vấn đề” đó. Đ~ thố ng nhất mật khẩu kín khi trao đổi trên điệ n thoại, đảm bảo nguyên t ắc thông tin bí m ật, không được để l ọt v{o c|c cơ quan phản gián đặc biệt…. tôi nghĩ ra cốt mật m~ đặc biệt riêng v{ đ~ được sử dụng. Như vậy là tôi hoàn toàn nắm vững được quá trình tiến hành thử. Nhưng cũng phải xuống quân khu nhiều lần. Lúc thì có điêu chưa tính đế n, lúc thì phải giải quyết c|ch kh|c… M{ cũng phải thôi, không th ể t ạo ra c|c điều kiện khí hậu v{ c|c điều ki ện sử dụng khác nhau ở trong nhà máy. Thí d ụ: Nước kênh đ{o đục, cát và nóng. Th ế là, tôi và Nhikitin cho đến khi kết thúc cuộc th ử, c ứ phải di chuyển t ừ quân khu nọ sang quân khu kia: Lúc thì ở vùng sa mạc Trung Á, lúc thì ở vùng nước biển mặn. Nhiều lần anh em Igiépxk và Tula chúng tôi ph ải giết thời gian ở các sân bay, nhà ga, ch ờ di chuyển. Những khẩu trung liên c ủa chúng tôi đ~ l{m việ c t ốt trong điều kiện miền trung Nga, bắt đầu trở chứng ở Uzơbêkixtan. Phòng thiế t kế đ~ cử Crupin, kỹ sư chủ chốt của phòng và kỹ thuật viên chỉnh súng giàu kinh nghi ệm đến địa điể m thử. Hàng ng{y, tôi đều nhận được thông báo kết quả thử.
Trong giai đoạn thử, đ~ ph|t hiện ra một trục trặc có tính quy luật: Khi bắn liên t ục, nòng súng bị nóng đỏ, dính vào h ộp, phải lấy búa đập mới t|ch ra được. Người tiến hành thử của chúng tôi đ~ cố gắng hết sức nhưng không khắc phục được tình trạng n{y, bèn đ|nh điện cho tôi: “Đ~ l{m mọ i việc, nhưng không đạt kết quả. Hãy đến gấp.” Một ng{y sau tôi đ~ có mặ t t ại trường bắn Xamarcan. Chúng tôi cùng nhau gi ải quyết nhiệm vụ không dễ dàng này. V ẫn uổng công vô ích. Và sau khi nh ận thấy rằng trong điều kiện dã chiến không thể khắc phục được thiếu sót này, tôi vi ết đơn đề nghị ban kiểm tra cấp cho chúng tôi m ột s ố nòng để c ải ti ến – điều ki ện cu ộc thi cho phép các bên tham gia can thi ệp kịp thời những trường hợp tương tự như vậy.
Tôi nhận được nòng súng cùng với nhân viên ủy ban và nhân viên nghi ệm thu quân sự, trung tá Malin ốp tìm v{o xưởng cơ khí qu}n sự trong thành ph ố. Hôm ấy là ngày cuối tu ần, may mà chúng tôi còn k ịp g ặp anh em đang l{m việc. Trướ c tình thế khó khăn n{y, tôi đ~ khẩn khoản nhờ anh em ở l ại cùng làm việc v ới chúng tôi bu ổi t ối, và nếu có thể, thì cả ng{y mai để m ạ bằng crôm những khúc thép của nòng súng. Tất nhiên công vi ệc không đơn giản. Nhưng anh em thợ đ~ đồng ý giúp đỡ nhà thiết kế còn trẻ nhưng đ~ kh| nổi ti ếng. Ngay buổi t ối hôm đó mọi việc đ~ được làm xong. Gần sáng ngày hôm sau chúng tôi tr ở về chỗ thử, nâng niu trên tay những chiếc nòng súng đ~ được c ải tiến, giải pháp cho một trong những vấn đề bất ngờ đối v ới chúng tôi. Chúng tôi bắt tay vào th ử lại. Tôi nghĩ rằng, phần lớn thành viên ủy ban và t ất cả những người dự thi không tin r ằng chúng tôi lại khắc phục thiếu sót nhanh th ế. Và t ất c ả m ọi nghi ngờ đều tiêu tan hết ngay sau lần ki ểm tra thứ nh ất: Nòng súng tách ra m ột cách nhẹ nhàng! Cứ như l{ trước đó không có vấn đề gì. Rõ rằng lớp mạ crôm đ~ chống sém vĩnh viễ n cho lỗ lắp nòng. Cuộc thử v ẫn tiếp t ục được ti ến hành, còn chúng tôi thì th ở phào nhẹ nhõm… Tất nhiên sau những công việc căng thẳng như thế ai chả muốn nghỉ ngơi thư gi~n, l{m dịu th ần kinh. Nh ất là vào th ời gian nóng nực kh ủng khiếp của vùng Trung Á ở đ}y… Thế là chúng tôi cùng v ới Malinốp quyết định sau khi làm vi ệc xong sẽ đi ra sông Đêr|psan để t ắm và nghỉ ngơi. Khi đi qua chợ chúng tôi mua một qu ả dưa hấu to, cứ khấp khởi trong bụng là vừa được t ắm mát lại vừa được ăn dưa. Nhưng chúng tôi đ~ không được thưởng thức cả hai…
Trước khi xe đi v{o cầu, thì t ừ lùm cây bờ sông một người đi xe đạp lao ra, chú chiến sĩ l|i xe đ|nh tay l|i gấ p quá, xe b ị lao xuống v ệ đường, trong nháy m ắt b ạt xe vướng c}y r|ch tơi tả hai c|i pađờsốc vênh váo, xe d ừng lại dưới đường đến mười mét. Chúng tôi ch ẳng k ịp hi ểu ra làm sao c ả, nhưng lạy tr ời l ạy đất, t ất c ả m ọi người đều bình an vô sự. Quả dưa hấu vỡ tan, hạt bắn tung tóe vào t ất cả chúng tôi. Malinốp nhặt một miếng dưa còn nguyên, cắn một miếng rồi đưa tôi: “Quả dưa ngọt lắm, thật không uổng công chọn l}u đến thế!” C}u nói đùa đ~ l{m vợ i đi hẳn cơn choáng mà chúng tôi v ừa trải qua.
Đương nhiên cuộc đi nghỉ của chúng tôi chấm dứt ở đ}y… Thật ra, ngày hôm sau bay chỉ huy đơn vị bi ết chúng tôi sắp về nhà và cuộc đi chơi hôm trướ c không thành nên đ~ quyết định t ổ chức lại cuộc đi. Quả thật con sông Đêr|psan thật xứng với ước ao được đến nghỉ ngơi tắm mát của chúng tôi!
Về đến nhà tôi lại gặp một rủi ro nữa. Tôi k ể câu chuy ện không vui này ch ỉ với một mục đích để m ọi người không ấn tượng l{ hình như tôi luôn gặ p m ọi chuyện th ật d ễ dàng không có kẻ ghen, người ghét. Câu chuyện xảy ra vào th ời k ỳ ch ống sùng b|i c| nh}n, khi m{ ngườ i ta không chỉ chống Xtalin mà còn tìm ra c ả những người có tác phong này ở mỗi gia đình. Đ~ thành lệ, cứ mỗi cuộc họp công nhân hay h ọp đảng là phải có ai đó bị vạch mặt, chỉ tên, hoặc là lạm dụng chức quyền hoặc vi phạm, hoặc thói hư tật xấu…
Tôi cũng không tho|t khỏi bị “phê bình” theo kiểu ấy. Sau khi thử trung liên ở Xamarcan trở về, tôi phát hi ện ngay rằng, đồng đội cư xử không bình thường khi nói chuyện với tôi. Tôi h ỏi mọi người có điều gì xẩy ra vậy, trong khi tôi đi vắng, thì được đưa cho xem tờ báo của nhà máy. Dưới đầu đề “Về việc khắc phục chủ nghĩa c| nh}n v{ hậ u quả của nó” b{i b|o l{ bản t ổng kết cuộc họp ở t ập thể đội chúng tôi. Nghĩa l{ trong cuộ c họp này, một trong những nhà thiết kế đ~ phê bình dữ dội Kalasnhicốp đ~ coi thường ý kiến của các nhà thiết kế bình thường, xem nhẹ những đề nghị của họ, v}n v}n… Đ~ nêu ra nhiều thí dụ về sự “độc đo|n” của tôi. Và bài báo k ết luận đại th ể thế này: tôi chỉ khá hơn Xtalin là k ẻ đ~ sinh ra tệ súng bái cá nhân. Xtalin còn x ấu hơn tôi v{ nguy hiểm hơn đối với “x~ hội xã hội chủ nghĩa”. Đó l{ b}y giờ thì tôi mới d|m đùa tí chút, chứ khi đó,tôi mất ăn mất ngủ không chỉ một ngày, thiếu gì điều m{ tôi không nghĩ đi, nghĩ lại m~i!… “Khắ c ph ục thiếu sót sau kết quả th ử” l{ như thế nào? Khẩu trung liên “đồng nhất” để l{m gì?… Phải chăng tấ t cả những việc dó chỉ là sự nối tiếp của công việc làm cho cá nhân tôi, cho chính s ự “độc đo|n” ấy? Tôi luôn luôn cho r ằng, tôi lao động là vì t ổ quốc, vì sự nghiệp củng cố sức mạnh quốc phòng của t ổ quốc. Nhưng mọi người, hóa ra, không hi ểu tôi. Như thế là thế n{o, v{ cho đến t ận bây giờ hơn một lần xảy ra như thế. Giờ đến lượt tôi… Tôi lại tìm lốt tho|t trong s|ng t|c thơ, những c}u thơ bỗ ng nhiên mang nặng nỗi “suy sụp tinh thần”! Giờ
tôi
chẳng
Người thì đ~ cần Cuộc đời ch{ Như |o ông nội bạc màu thời gian.
có
mất n|t
dần
ai
còn đớn
c ần
đ}u? đau
Để t ự làm lành vết thương, ý nghĩ của tôi thườ ng quay về thời thơ ấu xa xôi, tưởng như hạnh phúc ấy… Bỗng nhiên, tôi đọc li ền m ột m ạch c ả b{i thơ của Nhêcraxốp c ứ như để t ự khích lệ mình: “H~y l{m việc, v{ đừng run sợ!” Nhưng c}u thần chú trước kia đ~ có t|c dụng, nay chẳng còn sức mạnh như xưa nữa. Sau khi thông báo v ề sự hiểu lầm đ~ xảy ra, tôi nói với nhà máy r ằng những lời buộc t ội tôi đ~ được công bố không thể cho phép tôi làm vi ệc như cũ. Tôi sẽ ch ỉ làm những việc thường k ỳ. Vi ệc th ử kh ẩu trung liên nh ất th ể hóa đ~ kết thúc. Tất c ả m ọi việc vẫn diễn ra bình thườ ng và theo chức trách thì tôi v ẫn tiếp t ục làm công tác lãnh đạo, mặc dù tôi vẫn cảm th ấy mình l{ người bị buộc t ội mà không có t ội. Tôi làm sao m{ thanh minh được điều đó trướ c t ừng cán bộ, công nhân viên c ủa nhà máy rộng lớn n{y… Tôi rất muốn được kể thêm chi ti ết hơn về t ất cả những điều này ngay bây gi ờ, nhưng thôi sẽ có dịp…
Điều n{y thường xảy ra khi ta v ề gi{, khi trong đời có những kẻ mưu mô, thủ đoạn mà về sau ta mới hiểu rõ, lúc đó họ đ~ }n hận, hối lỗi và thế là chúng tôi lại tay bắt mặt mừng, ôm hôn nhau. Còn lúc bấy gi ờ tôi vẫn tiếp t ục ph ải tr ả giá vì nh ững mưu mô đó. B{i thơ bắt đầu bằng một nhịp tim đập loạn xạ dữ dội. Tôi cân nhắc kỹ cả rồi Chỗ dựa vững chắc trong đời còn đ}u Trái tim nhịp đập không đều
Động cơ mòn, cả tiếng kêu phập phù Xe tang bên cửa đứng chờ Có thể đ}y là giờ của tôi
Còn tôi đ~ lên đường rồi Vương quốc tăm tối l{ nơi tậ n cùng.
Tôi trích nh ững c}u thơ trên chẳng phải để làm chuyện làm dáng, ch ẳng phải để phô diễn thanh t ựu thơ ca, hy vọng bạn đọc hiểu cho điều này và bỏ qua cho sự thiếu hoàn hảo của chúng. Khoảng mấy tháng sau, lại có cuộc họp đ|ng sợ, nhưng với chương rình kh|c: “Giả i thích nghị quyết Ban chấp h{nh Trung ương đả ng về cách nhìn nh ận vấn đề không chính xác c ủa c|c địa phương về sùng b|i c| nh}n”. Trong cuộc họp, bí thư đảng ủy nhà máy trở l ại trường hợp c ủa tôi, nhưng với nh ững t ừ ho{n to{n kh|c. Hướng t ới người kỹ sư thiết kế đ~ buộc t ội tôi, ông nói: “Thế còn đồng chí hay làm dù ch ỉ một phần những gì Kalasnhic ốp đ~ l{m được thì sẽ là sự đóng góp lớn lao của đồng chí vào việc giải quyết các nhiệm vụ của t ập thể đội thiết kế rồi!” V}ng, đ}y l{ phần kết thúc của câu chuyện này. Cuộc th ử súng đ~ đến ph ần cu ối. T ất c ả c|c đại di ện c ủa đội tôi đều đ~ về nhà, giờ chúng tôi chỉ còn đợi thông báo k ết quả t ừ Ủy ban kiểm tra. Chúng tôi ch ờ đợi khá lâu trong nhà máy, th ảo lu ận m ọi trường h ợp tr ục tr ắc đ~ xảy ra của m ẫu trung liên trong khi bắn thử và những yêu cầu đưa ra của thành viên ủy ban, cũng như c|c th{nh viên đại diện qu}n đội v{ người thử. Còn ủy ban thì tính k ết quả thử, viết báo cáo, rút ra k ết luận, đưa ra đề nghị…
Năm 1961, qu}n đội Xô Vi ết được trang bị kh ẩu trung liên PK m ới th ống nhất v ới nhiều dạng kh|c nhau. Như vậy hệ thống vũ khí bộ binh nhất thể hóa thứ hai dùng đạn súng trường đ~ đượ c thành lập. Sau hai năm, chúng tôi được biết công trình của chúng tôi được đề nghị t ặng giải thưởng Lênin. Khi t ất cả tài liệu đ~ được gửi về ủy ban giải thưởng thì tôi được gọi về M|txcơva. Tôi có nhiệ m vụ kể lại quá trình ch ế t ạo các bộ vũ khí của đội, nhấn mạnh t ới những điểm m ới, hiện đại trong đó. Tôi mang theo t ất cả các mẫu để trưng bày.
Ng{y hôm đó l{ ng{y xem xét đề nghị t ặng thưởng cho một số tác giả, vì vậy tôi phải ng ồi ch ờ trong phòng khách lớn trước phòng họp c ủa ủy ban. Trong phòng khá đông người. Mọi người trao đổi khẽ khàng, nói chuy ện vui. Nhưng thực ra ai cũng hồi h ộp, nóng lòng chờ đợi công bố chính thức vì dây là m ột gi ải thưởng l ớn h ồi đó. Tôi cũng bắt đầu căng thẳng thần kinh: Liệu mình có gi{nh đượ c thắng lợi không? Vừa lúc ấy thì tôi được gọi vào. Tôi không nhớ rõ căn phòng n{y lắm. Chỉ nh ớ có m ột chiếc bàn dài. sau bàn là các thành viên của ủy ban. Tôi để các mẫu vũ khí lên b{n. Độ ng tác của tôi lóng ngóng, không t ự nhiên. Nhưng rồi, tôi cũng lấ y lại bình tĩnh, tậ p trung tinh thần trình bày bản báo cáo, trả lời các câu h ỏi của các thành viên ủy ban, giới thiệu các sản phẩm.
Mãi một lúc, khi đ~ bình tĩnh trở lại, ngước m ắt lên, tôi th ấy một người có tuổi, dáng không cao, m ặc bộ quần áo mầu xám, tiến đến bên tôi.
V{ đột nhiên trước m ắt tôi hiện ra một c|i b{n ho{n to{n kh|c… Trong ph òng làm việc của tướng Blagônvarốp ở Xamarcan. Và trên bàn ch ỉ có duy nhất một khẩu “trung liên nhẹ số một”. Tôi reo lên: - Anatôli Acađierich! Vị tướng ôm chặt tôi nói: - A… Anh bạn cũ của tôi. Trang b ị đầy đủ quá nhỉ? Tôi lấy tay khoanh vòng các m ẫu trên chiếc bàn dài: - Vâng, một bộ đầy đủ. Cả một gia đình nh{ súng! - Hóa ra tôi đ~ l{ người cha đỡ đầu của chúng? – Blagônvarốp mỉm cười. Tất nhiên ông gi{ đi nhiều, nhưng chính điều đó lạ i làm ông dịu d{ng hơn v{ tế nhị
hơn.
- Tôi luôn coi thi ếu tướng là người đỡ đầu, tôi luôn nhớ ạ? - C ứ lắm! – Ông nói xúc động – C ừ l ắm… Tôi thực s ự vui sướng v{ được an ủi: Xin
cảm ơn anh.
Cuộc gặp bất ngờ này mới cần thiết và quan trọng l{m sao đối với tôi! Má lại sau ngần ấy năm trời, cái ngày xa xôi ấy ai đ~ tạo thuận l ợi cho tôi, đ~ chúc phúc tôi lên đường may mắn. Nhiều năm về trước ai đ~ từng chỉ bảo tôi bước chân vào con đường hôm nay. Thật kỳ diệu: Hơi ấm t ỏa t ừ t ừ cuộc gặp n{y đến nay vẫn còn trong tôi và khi tôi viết những dòng n{y thì hình như |nh s|ng rọ i chiếu cả hai chúng tôi ngày ấy vẫn
còn đ}y, không mất đi vô tăm tích.
Về đến nhà, tôi t ập h ợp t ất c ả đồng đội, b ạn bè để k ể l ại n ội dung tôi đ~ trình b{y trước ủy ban giải thưởng và cuộc gặp b ất ngờ với viện sĩ nổi tiếng, người anh cả c ủa ng{nh vũ khí, v{ dự đo|n rằng mọi việc sẽ kết thúc t ốt đẹp, chúng ta sẽ được t ặng thưởng. Sự linh cảm đ~ không đ|nh lừa tôi: Năm 1964 ấ y, do có công ch ế t ạo t ổ hợp vũ khí đó, chúng tôi đ~ được t ặng giải thưởng Lênin.
Nhiều người hỏi tôi: “Ông luôn cạnh tranh với các phòng thi ết kế khác, cùng làm một việc như nhau. Vậy cạnh tranh có ý nghĩa v{ ích lợi không?”. Tôi luôn trả lời rằng, đương nhiên l{ có cả hai – cả ý nghĩa v{ ích lợi. M{ trước hết l{ để t ạo điều kiện cho các chuyên gia quân s ự lựa chọn được cái t ốt nhất, trong số những c|i đưa ra chọn. C|i đó quan trọng lắm chứ! V{ trong thi đua công việ c sẽ được tiến hành nhanh
hơn, chất lượng hơn.
Sau những giải thích như thế, thường có người lại hỏi: “C|c anh l{ ngườ i chiến thắng, đương nhiên l{ sung sướ ng rồi. Thế còn những người cạnh tranh thua cu ộc thì thế nào? Họ có trở th{nh kình địch của anh không?”. Để trả lời câu h ỏi này, tôi thường dẫn ra câu chuyện sau: Phần lớn những người cạnh tranh với chúng tôi là nh ững nh{ vũ khí Tula. Họ có một t ập thể vững mạnh, có trường phái ch ế t ạo vũ khí riêng rấ t lớn, xuất sắc và nhiều thủ lĩnh nổi tiếng. Không phải một lần chúng tôi đ~ chạ m trán nhau ở vòng chung kết. Chọn lấy một trong hai đối thủ mạnh nhất: Tula hay Igiepxk?… V{ khi chúng tôi được lựa ch ọn thì họ cư xử rất xứng đ|ng v{ lịch thiệp. Tất nhiên chịu thất bại một cách xứng đ|ng, có thể khó hơn l{ gi{nh chiế n thắng. Còn chúng tôi ch ẳng bao giờ đưa ra đòi hỏi gì với những người cạnh tranh cả. Hơn thế nữa, có một sự kiện kh ẳng định s ự độ lượng v{ kho|ng đạt c ủa người Tula l{, chính trường đạ i h ọc B|ch khoa Tula đưa ra đề ngh ị phong cho tôi h ọc v ị ti ến sĩ khoa học k ỹ thu ật, không tu}n theo quy định thông thường, t ức là không cần bảo vệ như thường lệ, chỉ hạn chế trong phạm vi báo cáo công vi ệc v{ trưng b{y kết quả đạt được… Tôi được phong học vị tiến sĩ kỹ thuật v{o năm 1971. Và còn một thí dụ nữa, thuộc lĩnh vực khác. Tới dự lễ mừng sinh nhật lần thứ năm mươi của tôi hầu như l{ đại biểu của t ất cả c|c trường ph|i vũ khí từ Igiepxk, Cavơrốp, Tula. Ít lâu, sau ngày k ỷ niệm này, lại bắt đầu những ngày làm việc sôi nổi cải tiến vũ khí theo hướng dùng đạn cỡ nhỏ hơn. Ý tưởng n{y c|c nh{ vũ khí đồ ng nghiệp nước ngo{i đ~ l{m v{ nay l~nh đạ o quân sự chúng ta cũng quyết định bắt tay vào làm công việc này. Tất nhiên, tôi cũng không thể đứng ngoài cuộc, thỏa mãn với th{nh tích đ~ đạt được. Bởi vì, ở một mức độ n{o đó, tiếng tăm anh gi{nh đượ c không cho phép anh dừng lại, mà nếu còn sức lực thì anh phải tham gia vào công vi ệc thiết kế mới. tôi không phải là ngoại lệ. Tất cả những người đi trước tôi cũng đều như thế , họ tiếp t ục làm công việc sáng t ạo cho đến hơi thở cuối cùng. Miễn là anh có thể sáng t ạo ra được c|i gì đó đứng vững. Cuối cùng thì t ất cả chúng ta đều cùng chung m ột số mệnh: Lớp m ới tr ẻ hơn, t{i năng hơn v{ vượ t chúng ta, họ sẽ đến thay thế. Chúng ta sẽ ra đi thật mãn nguyện, vì thế để l ại cho thê h ệ tr ẻ m ột t ấm gương để h ọ noi theo, học t ập, thông qua nh ững công trình lao động, sáng t ạo của chúng ta.
Khi chúng tôi làm quen v ới các yêu c ầu mới đề ra, cho lo ại vũ khí sẽ được ch ế t ạo, thì thấy rằng, những yêu cầu này không thể thực hiện nổi. Tôi có c ảm tưởng rằng, khối lượng công việc cần phải làm là vô cùng l ớn. Để giải quyết có hiệu quả hơn nhiệm vụ n{y, trước hết phải bắt tay vào vẽ phác thảo. Chúng tôi quy ết định thành lập một số t ổ làm việc theo c|c hướng kh|c nhau. L{m như thế để sau này sẽ xác định một trong c|c hướng đó l{m cơ sở.
Trong giai đoạn chuẩn bị đ~ được tiến hành nhiều thí nghiệm lớn. Giảm cỡ đạn không có nghĩa đơn giản l{ “l{m lại nòng”, chuyể n t ừ nòng to sang nòng nh ỏ hơn, như một số người suy nghĩ. Ho{n to{n không phải như vậ y. Cỡ đạn nhỏ ẩn giấu trong mình nhiêu điều đặ c biệt không thể lường trước, đôi khi buộc ph ải xem xét lại toàn bộ công việc. Chẳng h ạn, ta đổ đầy nước vào nòng, thì ngay phát b ắn đầu, m ẫu đ~ bị hỏng, và có thể vỡ thành mảnh bất ngờ nhất, t ức là gây nguy hiểm cho người bắn. Do vậy, đ~ phải b ỏ ra bao nhiêu công s ức để đảm b ảo độ b ền cho nòng. Sau khi tiến hành nhiều lần thí nghiệm và áp dụng thay đổi mới trong cấu t ạo của mẫu, chúng tôi mới khắc phục được nhược điểm của nòng cỡ nhỏ. C|c định mức quy định về độ chụm không đảm bảo được nếu không thiết kế cơ cấu nòng đặc biệt. Công việc thiết kế sau đó chỉ ra rằng: Tất cả những gì m{ trước đó cho l{ đơn giả n, lại r ất ph ức t ạp v{ đôi khi không thể th ực hi ện n ổi. N ếu gi ảm nhẹ được tr ọng lượng vũ khí, thì cầm sẽ dễ hơn, v{ bắn chính x|c hơn. V{ có lẽ hiệu quả chiến đấu sẽ cao hơn nhiều so với sơ đồ cũ, cổ điển. Song, chúng tôi cho r ằng, vũ khí theo sơ đồ cũ phục vụ nhiều năm, được coi l{ đơn giản nh ất v ề cấu t ạo, có độ tin cậy cao, được các chuyên gia đ|nh gi| l{ loại vũ khí “tố t nhất trong thực ti ễn th ế gi ới”. Do vậ y, n ếu b ỏ qua, không tính đến vũ khí đó sẽ là một thiếu sót. Các thí nghiệm tiến h{nh đ~ chỉ ra rằng, cơ sở của khẩu tiểu liên AKM chứng t ỏ được mặt mạnh của nó. Sơ đồ cổ điển có thể đứng vững và cạnh tranh xứng đ|ng với t ất cả các mẫu mới.
Đương nhiên, trong lĩnh vực n{y cũng không tr|nh khỏ i có sự phê ph|n. Đ~ có nhiều ý kiến chỉ trích t ừ bên ngoài c ả của đồng đội và cả của những người đi theo con đường kh|c để giải quyết vấn đề phức t ạp n{y. Căn cứ để người ta chỉ trích l{ sơ đồ của AKM già cỗi rồi, nó bị vắt kiệt chẳng còn gì nữa: “Sơ đồ thiết kế của ông t ừ lâu đ~ như quả chanh bị vắt kiệt và chẳng mang lại th ần dược gì nữa!” Những ý kiến đó không làm nguội lạnh, m{ ngược lại l{m tăng niềm tin của t ập thể chúng tôi vào sự đúng đắn của sự nghiệp đ~ bắt đầu. Sau khi tiến hành thử nghiệm sơ bộ v{ thăm dò đạt kết quả t ốt, chúng tôi kiên quyết theo hướng đồng nhất hóa sơ đồ. Trên cơ sở này, chúng tôi mới bắt tay vào
nghiên cứu toàn bộ mẫu vũ khí bộ binh cỡ đạn nhỏ. Chúng tôi không ph ải l{ đơn vị duy nhất thực hiện công việc này. Còn có các phòng thi ết kế kh|c cũng giải quyết vấn đề này song song với chúng tôi. Trong vòng v{i năm, chúng tôi đ~ chế t ạo và thử nhiều lần những giải pháp thiết kế độc đ|o kh|c nhau. Những người tham gia công việc n{y đ~ bổ sung cho nhau b ằng c|c phương ph|p kh|c nhau để giải quyết cùng một nhiệm vụ đề ra. Trong t ừng giai đoạn một, có các cuộc họp chung được t ổ chức để tiến hành sơ kết công việc đ~ l{m được trong giai đoạn đó. Chúng tôi đ~ nhận đượ c những ý kiến nhận xét, giới thiệu nhằm tiếp t ục hoàn thiện mẫu, nhờ đó m{ chúng tôi từng bướ c tiến t ới mục tiêu đ~ định. Trong các cu ộc h ọp, l ời khen rất ít, chủ yếu là phê phán và đề đạt nguyện vọng. Không tránh kh ỏi những phán xét cho m ột “hướng” n{o đó: “Tính đến khả năng mẫu ti ểu liên và trung liên không có tri ển vọng được đi thử, nên việc hoàn thiện tiếp l{ vô ích”. Vòng đua ng{y c{ng khép hẹp lại.
Thông thường các cuộc thử so sánh được tiến hành thành nhi ều vòng. Vòng cuối, còn lại hai đơn vị tham gia, được phép sản xuất số lượng tiểu và trung liên b ằng nhau để tiếp t ục thử lần cuối ở đơn vị. Lần này, ở vòng đích, đối thủ của chúng tôi l{ trường ph|i vũ khí Cavơrố p. Ký ức tôi còn trân trọng lưu giữ những kỷ niệm của một thời xa xăm, khi tôi chậ p chững bước đi đầu tiên của người thiết kế vũ khí ở trường ph|i n{y. Tôi m~i mang ơn những đồng nghiệp c ủa tôi và t ất c ả m ọi người Cavơrốp đ~ tham gia tích cực để cho sự ra đời khẩu tiểu liên AK-47 đầu tiên. Và giờ đ}y, sau gần 25 năm – m ột ph ần tư thế k ỷ! – chúng tôi lại g ặp nhau, nhưng với tư c|ch l{ hai đố i thủ cạnh tranh chính. Ph ải nói một cách công b ằng rằng, mặc dù c|c điều kiện cạnh tranh rất quyết liệt, nhưng trong suốt thời gian hoàn thi ện mẫu và thử ở đơn vị, các dại di ện c ủa Cavơrốp đ~ tỏ ra l{ c|c đối th ủ r ất x ứng đ|ng. Tất c ả mọi người, t ừ người th ợ nguội đến nhà thiết k ế chính đều r ất lịch thiệp và t ốt bụng. Không xảy ra trường hợp nghi ngờ, tranh cãi k ết quả thử. Tóm lại, thật là dễ chịu khi được gặp gỡ với những đối thủ hiểu biết công việc vũ khí tường t ận v{ cư xử nghiêm túc, đứng đắn như thế . Mà nhất là gặp g ỡ ở vòng cuối – vòng quyết định. Tất nhiên, nói thế không có nghĩa l{ họ chấp thuận với mọi điều v{ đồng ý với mọi người. Không, khi c ần thiết họ vẫn có thể bảo vệ quyền lợi, danh dự của trường phái Cavơrốp, của nh{ m|y mình. Nhưng với th|i độ bình tĩnh, không căng thẳ ng. Giữa tôi và nhà thiết kế chính Cônxtantinốp đ~ có quan hệ bạn bè rất t ốt đẹp. Ông là nhà thiết kế vũ khí n ổi tiếng, đầy t{i năng, học vấn sâu sắc và nhiều kinh nghi ệm. Trong thời gian thử ở đơn vị, cả hai chúng tôi nhi ều lần hồi hộp, lo lắng cho số phận mẫu sản phẩm của mình. Nhìn chúng tôi ng ồi bên nhau, không ai nghĩ đó l{ hai đố i th ủ c ạnh tranh nhau mà là nh ững người bạn chiến đấu… Mỗi chúng tôi đều nói lời khen bạn nhiều hơn l{ tự khen mình.
Cũng như trước kia, cuộc thử ở đơn vị được tiến h{nh trong điều kiện khí hậu kh|c nhau để x|c định chính x|c hơn nhữ ng khả năng n{o tiềm ẩn trong mỗi phương |n đưa ra. Tất nhiên là trong ủy ban không có nh ững ý kiến nhất trí hoàn toàn cho mỗi phương |n. Vì mỗi phương |n đều có ưu điểm v{ nhược điểm, có ngườ i b ảo vệ v{ có người phản b|c. Người thì thích phương |n của chúng tôi. Ngườ i khác lại bảo vệ phương |n Cavơrốp. Và ch ỉ có kết quả thử ngo{i trường bắn, mới định ra ngườ i chiến thắng. Vì vậy ở mỗi quân khu, có ti ến hành thử, sẽ giới thiệu những mẫu nào mà trong quá trình thử, cũng theo trưng cầu ý kiến của cán bộ chiến sĩ, được xác định là t ốt nhất. T ất nhiên là các nhà thiết k ế, chúng tôi v{ c|c đại di ện không được phép tuyên truy ền có lợi cho sản phẩm của mình, đó l{ sự vi phạm lớn nhất luật lệ cuộc thi. Trong thời gian làm việc ở trường bắn, tôi thường được c|c đơn vị qu}n đội, không liên quan đến việc thử mẫu mới và ở nơi kh| xa mời đến. Ủy ban kiểm tra không phản đối các cu ộc đi của tôi, còn tôi cũng không thể t ừ chối đơn vị mời, nhưng tôi luôn mời ai đó bên Cavơrốp đi cùng, để tránh tiếng tôi đi tuyên truyền cho mẫu của mình. Vào thời gian n{y, vũ khí của tôi đ~ đượ c kh ẳng định vị trí trong qu}n đội, nên khi các cán bộ chỉ huy muốn giới thiệu “Kalasnhicốp sống” với toàn bộ cán bộ và chiến sĩ đơn vị thì cũng l{ điều dễ hiểu.
Không khi n{o tôi quên được “cuộc đờ i chiến sĩ gian tru}n”. Tôi kính trọ ng và thông cảm với cu ộc sống c ủa người chiến sĩ. Tôi rấ t mu ốn giúp những người lính trẻ sống xa gia đình hình th{nh tính c|ch tố t, tôi luyện tinh thần họ để trở th{nh người chiến sĩ với đúng nghĩa cao cả của t ừ này. Tôi thông c ảm với cuộc sống t ại ngũ không dễ dàng gì c ủa s ĩ quan và với khả năng có thể tôi luôn c ố gắng giúp đỡ c|c sĩ quan chỉ huy: Vào những năm ấy, trong tôi luôn có m ột tình cảm t ự h{o đặc biệt gắn bó chặt chẽ với số phận của qu}n đội, cũng l{ gắ n bó với số phận của nhân dân mình. Tôi còn nhớ, một lần đến thăm đơn vị nọ, viên tướ ng trẻ mở đầu cuộc gặp mặt như thế n{y: “Trước khi bắt đầu cu ộc g ặp gỡ c ủa chúng ta, tôi mu ốn h ỏi m ột câu, và trả lời không cần theo điều lệnh, m{ theo lương t}m… C|c đồng chí h~y nghĩ lạ i xem, có bao giờ Kalasnhicốp phụ lòng tin của chúng ta không?” Tiếng hét vang thật phấn khích: “Khô-ông!…”
“V{ hôm nay Kalasnhicốp cũng không phụ lòng tin, ông đ~ đế n với chúng ta!” – Viên tướng nói. Thời gian đầu, t ất nhiên tôi không quen nghe ai đó nói “Sao lau chùi Kalasnhicố p bẩn thế” hoặc “giữ gìn Kalasnhic ốp thiếu cẩn thận”. Một lần ở Xakhalin tôi được nghe
kể rằng, có một chú lính mới tò te đi lạc trong rừng, nhiều người đi tìm nhưng không thấy, cuối cùng phải dùng đến trực thăng mới tìm được. “Có một mình {?” – Tổ trưởng t ổ lái hỏi. “Một mình là thế nào? – Chú lính ng ạc nhiên đ|p: – Hai chứ!” Chiếc m|y bay định c ất cánh tìm tiếp thì chú lính k ịp hi ểu ra, vội ch ạy đến gi ải thích, r ằng không phải tìm nữa, rằng người thứ hai vẫn luôn luôn bên c ạnh. Đ}y n{y, nó chính l{ khẩu Kalasnhicốp. Nhà sáng chế đem lại cuộc sống cho khẩu súng, còn anh ti ếp t ục sống một cuộc đời đầy những công việc v{ lo }u đời thường… Khẩu súng mang tên “Kalasnhicốp” tồ n t ại riêng, thườ ng nằm trong những b{n tay đ|ng tin cậy. Trong khi đó, có lẽ , tôi không biết, liệu có người nào giải thích được cho tôi rằng đến một lúc n{o đó khẩu súng sẽ có một cuộc sống riêng, độc lập hay không?
Nhưng còn l}u mới đến c|i lúc đó. Còn giờ đ}y, tôi đang lo lắng những v ấn đề đơn giản hơn: Cavơrố p thắng hay Igiepxk th ắng. Chúng tôi chưa trả i qua cuộc cạnh tranh n{o căng thẳng như lầ n này. Giờ thì mọi việc đ~ xong xuôi, chỉ còn chờ quyết định của ủy ban. Tổng cục Pháo binh quyết định giới thiệu b ộ vũ khí bộ binh mới c ủa chúng tôi để trang bị cho qu}n đội. Chiến thắng này không chỉ của chúng tôi, những người thiết kế, mà còn là sự cố gắng lớn lao của các bộ phận “nh{ m|y chế t ạo Izơmas”. Thậm chí ở giai đoạn thử, các chi tiết được làm với m ột điều kiện bắt buộc là theo khuôn kh ổ sản xuất hàng loạt. Thật t ốt khi các nhà công ngh ệ đ~ giải quyết thành công nhiệm vụ này. Chính nhờ v ậy mà sau này khi nhà máy s ản xuất loạt lớn đầu tiên hai m ẫu tiểu liên và trung liên m ới đ~ tiến hành một cách thuận lợi. Tất nhiên ở giai đoạn soạn thảo tài liệu kỹ thuật không thể tính toán tuyệt đối chính x|c được, và trong quá trình nắm vững công nghệ chế t ạo loại vũ khí mới đ~ gặp không ít khó khăn. Khi soạn th ảo tài liệu, m ọi người đều c ố gắng hạn chế t ối thiểu những khó khăn đó, cũng lưu ý đến những đặc điểm công nghệ sản xu ất hàng loạt, nhưng không được hạ th ấp chất lượng chiến đấu cao của sản phẩm. Kinh nghiệm l}u năm v{ truyền thống lâu đời của nh{ m|y vũ khí Igiepxk đ~ giúp chúng tôi thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Ngay sau khi các m ẫu mới được trang bị cho qu}n đội, chúng tôi nh ận được những nhận xét đ|nh gi| tốt t ừ phía các nhà quân s ự. Thậm chí cả những người nghi ngờ rằng ủy ban quyết định thiếu chính x|c cũng phả i ch ấp nh ận. M ức độ đồng nhất cao của các mẫu đ~ được qu}n đội ta tiếp nhận như một điều kiện cần phải có trong k ỹ thuật vũ khí. Thế là bộ vũ khí bộ binh mới đ~ được b ắt đầu s ản xu ất hàng loạt và sử d ụng r ộng r~i trong qu}n đội. Cuối cùng t ập thể chúng tôi xứng đ|ng được nhận phần thưởng
của chính ph ủ. Riêng tôi, l ần thứ hai được phong t ặng danh hiệu “Anh hùng lao độ ng xã hội chủ nghĩa” v{ được t ặng huân chương Lênin.
CHUY ỆN RIÊNG TƯ NATASA Tôi muốn kể về Natasa t ừ khi vợ tôi thông báo r ằng trong gia đình vốn đ~ phứ c t ạp của chúng tôi ch ẳng bao lâu nữa sẽ có “qu}n bổ sung”. Sự phức t ạp của gia đình tôi l{ ở chỗ, khi tôi lấy nhà tôi, thì cô ấy đ~ có ch|u gái Nhita năm tuổi. Vợ tôi cũng biết rằng ở Kazắcxtan tôi có cháu trai Victor.
Năm 1918 chúng tôi sinh ch|u g|i Elecna. V{ c}u chuyệ n về “qu}n bổ sung” l{ v{o đầu năm 1953. Chúng tôi thường phỏng đo|n rằng: “Ch|u thứ ba sẽ là trai hay gái? Tôi vẫn hay nói đùa: Căn cứ theo mọi dấu hi ệu thì dứt khoát phải là con trai. Lúc tiễn vợ đi nh{ hộ sinh, tôi ôm hôn cô ấy v{ nói: “Nếu đẻ con trai, tôi mang ôtô đế n đón – ôtô thời ấy rất hiếm – Còn đẻ con g|i thì tôi cưỡi con ngựa gầy đến nhà hộ sinh”. Đến nơi, vợ tôi kể chuyện này cho các cô y tá. H ọ ngạc nhiên: “Chồng chị dữ thế à, không lẽ lại ích k ỷ đến thế?”. Thế thì chị c ứ đẻ cho anh ấy toàn con trai gi ống bố n{o!”
Ng{y 30 th|ng 1 năm 1954 ch|u g|i chúng tôi đặt tên trước l{ Natasa ch{o đờ i. Đến giờ, vợ tôi gọi điện: “Anh đến đón hai mẹ con!” Tôi đứng chờ ngoài hành lang nhà h ộ sinh. Các cô h ộ lý trao cho tôi m ột sinh lính bẻ bóng được quấn cẩn thận trong một chiếc khăn nhỏ. Tôi n}ng niu trong đôi b{n tay sinh linh bé nh ỏ ấy, lắng nghe tiếng “oa, oa”, dấu hi ệu c ủa cuộc s ống, khe khẽ bắt đầu. Tôi ru cháu bé, c ố ý nói to: “Vaxia, Vaxenca, con trai củ a bố yêu nào! Bố con mình về nhà thôi. B ố sắm s ẵn kh ẩu súng săn cho con rồi, mau lớn để b ố con mình đi săn!” Tôi nghe thấy các cô y tá nói nh ỏ với nhau: “Không lẽ chị ấy chưa nói l{ minh đẻ
con g|i {?”
Natasa là cháu gái th ứ ba trong gia đình chúng tôi.
Sau đấy v{i năm, tôi nhận đượ c bức điện t ừ Kazắcxtan: “Mẹ mất, con ở một mình” Gia đình tôi b{n luậ n kỹ lưỡng. Làm thế n{o đ}y? Cuối cùng mọi người quyết định mang ngay cháu về Igiepxk. Cháu còn ít tu ổi ph ải chịu tang mẹ, trong hoàn c ảnh đó có thể thành miếng mồi ngon cho kẻ không t ốt. Những t ập t ục hủ lậu tiếp thu thì dễ, nhưng loại bỏ có khi cả đời không được.
Đường đi Kazắcxtan chẳng dễ chút nào, mọi việc thật phức t ạp cả ở đó v{ cả ở Igiepxk. Thế l{ gia đình tôi có ba con g|i, một con trai. Ch|u trai đi theo con đườ ng của tôi. Cầu trời cho ch|u th{nh đạ t trong sự nghiệp khó khăn của chúng tôi và không ph ải lúc n{o cũng có ích n{y. Con trai tôi sinh đượ c hai cháu trai – cháu nội tôi Vasa và Misa. Nhưng giờ tôi không kể về chúng. Cháu Natasa tính tình r ất dịu dàng, mềm mại, khác với các chị. Cháu t ốt nghiệp trường múa Pecmơ v{ sau đó l{ trường đạ i h ọc cơ khí Igiepxk. Natasa có nhiều b ạn t ốt cả trai lẫn g|i, ch|u như l{ cụ c nam châm luôn thu hút b ạn bè đến với mình. Chúng tôi thường đi xem c|c tiế t m ục nghệ thu ật có cháu tham gia bi ểu di ễn. Những động tác uyển chuyển, nhẹ nhàng của cháu trên sàn di ễn kể c ả nh ững người ít hiểu biết về múa cũng cảm th ụ được đấy là những nét riêng chỉ có ở cháu, không ch ỉ trên sân khấu mà cả trong cuộc sống h{ng ng{y cũng vậy. Tất cả c|i đó, hình như ch|u sinh ra đ~ có sẵn. Có m ột lần, sau khi đi xem ở nhà hát về, tôi viết vào cuốn anbom t ặng cháu những dòng sau: Natasa mến thương Con gái yêu c ủa bố! Ngay t ừ khi lọt lòng
Đ~ l{ diễn viên múa! Cháu bật cười và nói: - T ất nhiên đ}y không phải là Nhêcrax ốp yêu quý của b ố, nhưng ở đ}y có một cái
gì đó.
Tôi không chịu: “Con h~y nói rõ c|i gì đó l{ c|i gì?”
Ch|u đổi giọng, nói rất nghiêm túc v{ cũng rất mềm mại: - Là cái bố rất yêu con, bố ạ!
Đối với tôi, cháu luôn r ất đỗi dịu dàng, và chân thành h ết mực. Năm 1977 sau một thời gian dài b ị bệnh nặng, Cachia Êcatơrina Vichtorôpna, vợ tôi t ừ trần, bao nhiêu công vi ệc nặng nhọc, bận bịu trong nh{ đều dồn lên đôi vai
múa mảnh mai của cháu. Và cháu l ại c{ng quan t}m hơn đố i với tôi. Tôi bi ết và thầm
c|m ơn ch|u.
Tôi còn nhớ, năm ấy tôi khuyên can cháu không m ời bè bạn tôi đến d ự sinh nhật tôi và bao nhiêu là lý do: nào là không ph ải năm tròn, n{o l{ năm ngo|i tổ chức r ồi, để c|ch năm, sang năm hẵng hay. Nhưng ch|u vẫ n t ổ chức. Cháu ngoại tôi, cháu Igor mười một tuổi con Lêna thì giúp dì Natasa n ấu nướng. Tôi th ấy Natasa yêu cháu Igor không kém gì m ẹ cháu, mà có th ể nói tôi không s ợ khi nói r ằng, còn hơn cả mẹ nó nữa. Nhiều người thấy dì cháu nó quấn quýt nhau thân m ật mà phát ghen. Hai dì cháu làm bao nhiêu là bánh: gatô, bánh rán, bánh hình s ố 8, bánh sanhes (wareneke)… Rồi lại bao nhiêu món ngon khác. Buổi t ối hôm ấy trôi qua th ật vui vẻ. Natasa biểu diễn trích đoạn t ừ các vở ba lê khác nhau, m ọi người yêu cầu, cháu l ại biểu diễn tiếp, cháu mu ốn đem lại niềm vui cho mọi người! Hôm sau cháu ph ải trở về M|txcơva. Thời tiết vào những ng{y đó thường xấu không bay được. Hai lần ch|u Igor đi tiễn dì, khi v ề lần n{o cũng nói:
“Thế n{o ng{y mai dì ch|u cũng bay được”.
Trong gia đình chúng tôi có một quy ướ c: nếu ai đi xa, trước khi đi ra khỏi nhà, nhất thiết phải ngồi lại một chút trước lúc đường. Hai ngày liền chúng tôi l{m như thế, đến ngày thứ ba, Natasa đi ra mở cửa ngay, cùng Igor bước nhanh xuống dưới. Natasa vai đeo túi, Igor cũng mang theo c|i gì đó. Trước kia tôi không bao gi ờ bước qua ngưỡng cửa trước lúc người đi xa bước qua. Lần này cửa đ~ mở s ẵn, tôi đứng đó nhìn theo sau hai dì ch|u đang vộ i vàng chạy đi. Bỗng nhiên, không hi ểu sao một ý nghĩ g{n dở thoảng qua trong đầu tôi: Đ}y l{ lầ n cuối cùng mình nhìn th ấy con? Hôm ấy là ngày chủ nhật, tôi xuống nhà bếp nhìn qua cửa sổ ra ngoài; kìa, hai dì ch|u đang v{o tắcxi, xe chuyển b|nh. V{ trong đầu tôi lại xuất hiện ý nghĩ ban n~y: Phải chăng đ}y l{ lần cuối nhìn thấy con?
Tôi đến phòng làm việc, l ật đi lật l ại gi ấy t ờ m ột cách vẩn vơ, vô nghĩa, ngóng chờ tiếng chuông điện thoại. Vì Natasa đ~ hứa khi chuyến bay được thông báo chính thức, thì cháu sẽ cho Igor lên t ắcxi, và sẽ gọi điện thoại về ngay. Tiếng chuông điện thoại réo gắt phá tan sự tĩnh lặng trong phòng. Tôi c ầm ống nghe và nghe thấy giọng Natasa; “Bố ơi, thời tiết xấu, vẫn không bay được, con sẽ tr ả vé, ng{y mai con đi tầ u hỏa” “Ừ, cũng được, thì đi tầu hỏa”.
Trên đường về nhà, Natasa ng ồi ghế trên bên cạnh người lái xe t ắc xi, Igor cùng đồ đạc ngồi ở ghế sau. Lái xe là b ạn học cũ v{ cùng tuổi v ới Natasa. Khi xe đi ra đườ ng
chính t ừ Đavilốp thì lái xe cua g ấp sang phải, xe không ăn tay l|i hay bay thẳ ng vào dải ph}n c|ch phía trước văng ra đ}m ngang v{o chiế c xe t ải hạng nặng. Đúng v{o chỗ Natasa ngồi… Cú va mạnh, bắn chiếc xe ra mép đường. Người lái xe theo quán tính chân vẫn đạp ga, tiếng động cơ rú ầm ĩ. Người trong xe b ị choáng còn xung quanh thì tíu tít lo l ắng. Tiếp theo sau là chi ếc xe chở người đi dự cưới về. Khách trên xe nhẩy xuống đường tìm cách mở cửa t ắcxi bị kẹt. Thêm người tiếp sức t ừ các xe khác, mở được cửa, đưa Natasa ra ngo{i, giữ xe đi qua đưa ngay v{o th{nh phố . Chiếc mũ trên đầu Natasa rơi ra, được nhặt lên và úp sụp sâu vào trán.
Igor v{ đồ đạc được đưa v{o xe tắcxi đi sau. Sau n{y Igor kể l ại: Hai dì cháu và có một đôi nam nữ trẻ đến điểm đỗ t ắcxi cùng m ột lúc, hai bên lịch sự nhường nhau chọn xe mất hàng phút. Thế mà bây giờ chỉ có mình cháu về, không thấy dì Natasa đ}u. Tiếng chuông điện trong nhà vang lên. Tôi ra m ở cửa và ch ỉ thấy mình Igor cùng đồ đạc. Tôi v ội vàng hỏi: Thế còn Natasa đ}u?… Ch|u hoảng quá chỉ nói lí nhí: “Chúng ch|u bị tai nạn. Có lẽ người ta chở dì Natasa đi bệnh viện”. Bắt đầu những phút chờ đợi sốt ruột, sốt gan: Kia kìa, con nó s ắp về rồi, phải thế chứ sao kh|c được? Lúc thì tôi ch ạy xu ống nhà bếp nhìn qua cửa s ổ ra ngo{i đường, rồi lại ch ạy vội ra cửa, khép hờ để con có về thì khỏi phải bấm chuông chờ. Natasa sẽ về bây giờ mà!
Nhưng chẳng thấy bóng d|ng con đ}u… Tôi bắt đầ u gọi điện dò hỏi các bệnh viện. Người ta giải thích rằng, hôm nay là ngày ngh ỉ ch ỉ có bệnh viên “Igrơmas” trực. Đ}y là bệnh viên của nhà máy chúng tôi, nó ở ngay cạnh đường đi s}n bay… Thế nhưng gọi hai lần đến hỏi đều được trả lời là cháu không có ở đấy. Tôi gọi điện cho Vichia, con trai và các b ạn bè hỏi xem phải làm gì bây gi ờ? Ai đó khuyên tôi: G ọi điện ngay hỏi công an!
Tôi quay 02 v{ được nghe câu trả lời: “Con g|i ông trong nh{ x|c bệnh viện IZMAS”. Đầu tôi tưởng như vỡ tung ra, b{n tay như chết trên đĩa điện thoại. Igor t ự gọi điện cho Vichtor sau đó cho người bạn cũ của tôi, tướng Nheverốp Nhicôlai Ivanôvích, ông ơi, h~y đế n nhà cháu. Ba chúng tôi phóng đến b ệnh viện, suốt th ời gian trên đườ ng tôi nghe tiếng h ọ c ứ nói như tận đ}u vẳ ng lại: “Cứ bình tĩnh… đ}y l{ mộ t sự nhầm lẫn… chính anh cũng biết là nhầm lẫn”. Đến bệnh viện, người ta dẫn chúng tôi đi lòng vòng, rồ i t ới nh{ x|c, trong đó có những xác chết không còn nhận d ạng được n ữa. T ất c ả trong tôi như cưỡ ng l ại, như
muốn kêu to lên: Chúng ta đến đ}u thế n{y? Đến để l{m gì!… V{ tôi đ~ nhìn thấ y Natasa ở đ}y… Sao họ lại mang nó đến đ}y? Sao họ lại để con một mình ở đ}y – gi ữa các xác chết?! Tôi chạy l ại ôm chầm l ấy Natasa và l ặp đi lặp l ại mãi một c}u: “Natasa con ơi, con vẫn sống sao con lại ở đ}y?… Giờ chúng ta sẽ đi khỏi đ}y, con ơi…?”. Tiế ng con trai và người bạn không lọt được vào tai tôi. Ch ỉ lo|ng tho|ng, đứt đoạn t ừ rất xa vọng t ới rời r ạc: anh… bình t}m… Natasa không còn… l{m sao được… anh nghe thấ y không? Không còn nữa… Sao lại không còn? Gì thế nhỉ, phải chăng tất cả chúng tôi: Natasa t ội nghiệp, tôi, Vichtor và Nhicôlai, c|c b|c sĩ, y t|, tất cả thành phố, mọi vật xung quanh đang ở trong cơn |c mộng
chăng?
Khi Natasa nằm ở nhà, xung quanh là nh ững bó hoa, ngườ i y tá già n ức nở: “B|c quý con lắm… B|c nhớ con lắm, con ơi!… Lúc n{o gặp b|c, con cũng chả o h ỏi – con rực s|ng như mặt trời sưởi ấm… thế mà giờ đ}y bóng đen lại mang mất con thế này!
Người qua đường đ~ chở cháu vào thành phố, đến bệnh viện, tìm b|c sĩ trực. Người y t| gi{, người quen của chúng tôi chạy ra kiểm tra. Đến cạnh xe, người y tá vành mắt Natasa ra và trút m ột hơi thở theo thói quen: “Chúng tôi không thể l{m gì được nữa. Cậu bé đ~ chết. Giờ phải chờ người dự thẩm”. Những người đưa ch|u nói với người y t|: “Sao lạ i thế? Suốt đường đi tôi vẫn còn nghe ch|u rên m{”. Có thể rên – người y tá nói – Nhưng b}y giờ thì nó hết khổ rồi. Natasa dáng vóc nh ỏ bé, hôm ấy lại mặc qu ần v{ |o săng đ}y, đội mũ lông đ{n ông hai lớp, ch}n đi ủng.
Khi ch|u sinh ra tôi đ~ gọi đùa l{ Vaxenca con trai củ a b ố, và giờ đ}y ch|u ra đi l{ “một cậu bé không còn nhận ra”. Chúng tôi chôn cất Natasa bên cạnh mẹ cháu. Bên t ấm bia kỷ niệm trên mộ cháu luôn có hoa tươi… Khi còn sống ch|u đ~ d{nh tình cả m ấm áp cho t ất c ả m ọi người. Tình cảm đó, thật quý giá vô cùng, nh ất l{ đối với tôi, người suốt cả cuộc đời theo đuổi một mục đích, tu}n thủ một ý chí, bỏ ra bao sức l ực trong phòng thiết k ế, trong nh{ m|y, ngo{i thao trường, phòng làm việc, họp hành – hội nghị. Cái mục đích ấy, ngay cả hôm nay tôi vẫn coi l{ vĩ đại… Thế nhưng khi thiếu v ắng nụ cười của Natasa, mục đích ấy hình như trở nên lu mờ và t ẻ nhạt.
Trên t ấm bia của Natasa có kh ắc dòng chữ số “30.1.1954 – 13.11.1983”. Trong d}n gian quan niệm ngày 13 là ngày x ấu… Thế nhưng đối v ới tôi, hình như con số đó lại là con số may. Suốt ngần ấy năm trời, cứ mẫu súng nào mang s ố 13 là khi th ử toàn diện đều trôi chảy, hầu như không có nhậ n xét về khuyết t ật.
Đi đường tôi cũng thích chọ n con số 13, m ọi người bi ết điều đó. Nhiều l ần c|c đại biểu Xô viết Utmuri đi M|txcơva họp, khi lên tàu ở Igiepxk, th ể n{o cũng có ai đó nói to: “Đừng ngồi vào ghế số 13 nhé! Số này suốt đời dành riêng cho nhà thi ết kế đấy!” Tôi quen nghĩ thế, nên thỉnh thoảng phải ghi ngày sinh 10.11 thì tôi l ại vi ết thành 13.11. Nhưng lần này, chính con s ố 13 chứ không phải con số nào khác lại tr ở thành nỗi b ất h ạnh cho t ất c ả chúng tôi: Ng{y Natasa vĩnh viễn r ời b ỏ cu ộc đời. Và nỗi đau ấy hòa cùng với nh ững hồi ức h ạnh phúc – t ất c ả gi ờ đ}y trong th ực t ế đ~ “gắn li ền” suốt đời với tôi… Mỗi năm v{o ng{y sinh Natasa, bạ n bè của cháu lại t ập trung ở nhà tôi. Sau này có người kể với tôi rằng: Một lần người lái xe t ắcxi cũng đến và ngồi khóc lặng lẽ.
Ở ngoại vi thành ph ố, trên bờ cái hồ lớn của nhà máy, mà t ừ xa xưa Đirabin đ~ x}y dựng, có một khu nhà ngh ỉ nhỏ của chính phủ Utmuri. H{ng năm tôi tới đ}y nghỉ , nhưng ngôi nh{ d{nh cho tôi lạ i ở nơi ồn ã nhất. Không thể t ập trung làm việc được, không thể nghỉ ngơi được gì, vì cũng phả i chào h ỏi nhau qua lại vào câu với người đi qua, ghé vào. Và cuối cùng người ta làm cho tôi m ột hàng rào chắn riêng, thế là nhà tôi ở ngoài hàng rào chung, ngôi nhà nh ỏ đặc biệt bằng gỗ ván. Xung quanh là r ừng, vốn t ừ trước vẫn thế. Nhưng từ khi tôi chuy ển về đ}y, tôi trồng thêm cây cối nên vườn trông rậm hơn.
Khi đi c}u c| hay đi săn về tôi thường mang theo cây con v ề trồng. Tôi thấy cây con nào mọc ở những chỗ khó khăn nguy hiểm, khả năng không tồn t ại được lâu là tôi cẩn thận đ{o lên v{ mang về khu vực xung quanh nhà ở trồng lại. Tôi tr ồng, chăm sóc và bắt đầu lo lắng: Liệu thân cây non n ớt kia có bén r ễ ở nơi mới không?… Tôi trò chuyện với chúng, động viên an ủi chúng: rằng, không sau đ}u, rồ i mọi việc sẽ qua đi tốt đẹp, mi có thấy không, ta đ~ gi{ lắm r ồi? Hãy gắng lên! Và những thân cây nhỏ bé dường như hiểu hết lời tôi, đ|p lại sự chăm sóc của tôi, lớn lên như thổi, dường như ra sức để làm cho tôi và chúng cùng vui chung. C ứ thế chúng lớn lên, t ự biến đổi, xum xuê hơn, c}n đối hơn. Có nhữ ng cây cong queo, x ấu xí trong r ừng, chẳng hiểu sao tôi thấy thương hại, nên mang về trồng, rồi nó lớn lên, và thật bất ngờ trở thành một c}y xinh đẹp.
Còn cây bạch dương n{y, nhìn thấy ngay dáng thon thả xinh đẹp tuyệt v ời c ủa nó. Nhưng kế li ền bên, thấy rõ vết h ằn sâu của xích sắt máy kéo… Liệu nó còn đứng đ}y được lâu không?
Tôi đ{o lên, cho v{o túi x|ch mang về trồng bên cạnh cổng. Tôi gọi tên cây bạch dương n{y l{ Natasa. Nó thật hồ hởi và vui thích nh ận cái tên này! Tôi chăm sóc nó đặc biệt cẩn thận. Vào mùa khô, nh ững ngày nóng bức, t ôi đi từ thành phố ra để tưới nước cho nó, và nó lớn lên không phải t ừng ngày mà t ừng giờ. Sau ba năm đ~ th{nh một c}y cao v{ c}n đối! “H~y lớn lên – Tôi vỗ về nó – hãy lớn lên đi, Natasa!” Kế liền, phía bên kia đườ ng là một cánh rừng dầy đặc, có biết bao nhiêu là b ạch dương v{ c|c loại c}y kh|c, nhưng vì c}y n{y tôi mang từ xa về, đem lại cuộc sống mới cho nó ở nơi an to{n, nên giờ đ}y nó mới dịu d{ng v{ xinh đẹ p làm sao.
Nhưng rồi một hôm, v{o mùa xu}n, tôi đến thăm c}y bạch dương th}n thiế t ấy, thì thật không tin vào mắt mình nữa. Nó đ}u rồi, cây b ạch dương xinh đẹp? Đ}u rồi Natasa?!
Tôi lao đến cổng… Không còn nữa. Bàn tay nhẫn tâm nào nỡ chặt cây sát t ận gốc. Cháu Igor thấy tôi phẫn nộ đến nghẹt thở, bèn tiến đến gần gốc cây, lấy tay xoa xoa mặt gốc rồi chìa lòng b{n tay cho tôi: “Ông ơi, nhìn n{y!… Bao nhiêu l{ nhự a, có l ẽ nó mới bị chặt”. Tôi trả lời ch|u: “Đ}y không phải là nhựa bạch dương, m{ l{ nước mắt Natasa đấy”. Tôi đ~ bật khóc. Đó l{ nhữ ng giọt nước mắt của tôi dành cho Natasa yêu quý.
BỨC THƯ CỦ A GASA Tôi nhận được thư từ Curia, lúc đầu đọc còn thấy vui, đọc xong thấy trong lòng trĩu nặng: Gasa chị cả tôi – nhũ mẫu của tôi, k ể lể lắm chuyện lôi thôi qu|. B{ đ~ chín mươi hai tuổi. Ở một gia đình đông con như gia đình chúng tôi, đứ a lớn trông đứa bé, thì chị thật t ội nghiệp, phải trông coi t ất cả. Có lần trên tivi tôi th ấy cảnh người kéo chuông cùng m ột lúc phải kéo mười quả chuông, bất giác tôi nh ớ lại ngày mình còn thơ bé chị đ~ phải đưa đẩy hai cái nôi treo m ột lúc. Thường thì dùng hai tay để đưa, mỏi tay thì dùng ch}n để đỡ, c ốt l{m sao để cho t ụi em hay kêu thét ấy im cho. Còn chị Gasa thì qua tay bao nhiêu l{ đứa em, bao nhiêu l{ trườ ng hợp để mà hồi tưởng lại. Tôi bảo cháu Igor quay l ại cu ộn băng m{ ch|u đ~ ghi ở Curia năm năm trước: Khi Anhia còn s ống, chị hay cùng Gasa cười đùa, gọi vui nhau l{ “cô g|i”: “N{y, cô g|i, cô còn nhớ đ~ đ|nh đổ chai dầu, chảy m ất phần tư chai, nhưng lại nói…”. Gasa vẫ n còn nhớ hết những c}u thơ m{ chị đọc thuộc lòng cho chúng tôi nghe khi bé, đang đọc chị phải dừng lại, vì đứng l}u, đọc nhiều mệt, thế nhưng ngồi đọc thì lại không muốn.
Sau đó trên m{n hình xuấ t hiện mảnh vườn nh ỏ trước nh{ Gasa. Trong vườ n r ực s|ng bao nhiêu l{ hoa đinh hương v{ cẩm chướng đang độ nở! Và lại nghe thấy tiếng nói: “Mọi người nói v ới tôi rằng “cô” như thiếu nữ ấy. Vẫn còn thích trồng hoa. Tôi cũng rất yêu c|i đẹp, nên tôi r ất thích trồng hoa. Dù sau đó có bị ốm, phải nằm, tôi vẫn cuốc xới, trồng t ỉa, tưới t ắm, chăm sóc… “Khoai t}y tôi cũng tự trồng, chăm sóc như vậy… nhiều lúc chân t hì đau – m{ đôi khi lại cảm thấy như “không có ch}n”, thôi thì đau gối, đau đau ch}n c|c kiểu nhưng vẫ n c ố! Nếu có nhờ thì thế nào mợ ấy chả đến giúp. Nhưng không muốn lụy, s ự th ể l{ tính nh{ “Kalasnhicốp” vẫn th ế mà. Thôi thì có ốm o, mệt mỏi t ự mình làm vẫn hơn đi nhờ. Th ế còn t ự mình giúp đỡ ai việc gì thì lại khác. Chả cần phải đến g ọi, người nhà Kalasnhic ốp v ẫn thế, thấy h ọ hàng hay hàng xóm láng giềng có việc gì làm không nổi thì l ặng lẽ đến giúp. Ch ẳng ai hỏi chúng tôi cũng đến. Đêm đ~ khuya tôi mới viết l ời chúc sức kh ỏe ch ị Gasa, nhưng nằ m mãi không ngủ được, rồi bỗng nhiên nhớ lại một câu chuyện đ~ l}u: Cũng về hoa. Khi ấy, tôi mới được bầu l{m đại biểu Xô Viết, trong một lần đến công tác ở một huyện phía bắc, sau cu ộc họp, chúng tôi ra đứng ở bậc thềm, tôi nói với người bí thư huyện ủy: Sao ở ngay trước cửa mà lại để cỏ dại mọc hoang thế, ở đ}y khó trồng hoa lắm à? Hôm sau tôi sang huy ện khác. Tôi thấy trước câu lạc bộ có một vườn hoa rực rỡ l{m sao!… Tôi lấy làm lạ, song vì công việc bận bịu nên tôi quên không h ỏi t ới!
Sau đó khoảng ba tháng, tôi lại về chính huyện n{y công t|c, lúc đó đ~ có tuyết đầu mùa. Tôi ngắm vườn hoa, vẫn thấy rực m ầu. Tôi nghĩ thầ m: Hoa gì th ế?… giống đặc biệt chịu rét? Đến gần, lấy tay cầm lấy một cành hoa thì th ấy cả cành lẫn hoa t ụt ra khỏi đất… hóa ra là hoa gi ấy, dây sắt giả làm thân! Thế l{ tôi đ~ hiểu ra chuyện: huyện láng giềng đ~ gọi điện b|o: Ông đạ i biểu đ~ hỏi sao lại không trồng hoa?… Vậy là c ỏ lập t ức được nhổ đi v{ cắm hoa cúc giấy v{o đấy, sau nhìn thấy quen, để luôn vậy. Tôi giấu bông cúc giấy trên tay và h ỏi bí thư huyệ n ủy ra chiều chưa biết: “N{y, sao các anh không lấy hạt để giống?… Bỏ phí mất loại hoa đặc biệt!” Anh ta nhìn tôi v ới đôi mắt chân thật và nói sôi n ổi “Giờ thì chưa rét lắm đ}u ạ, thể nào chúng tôi cũng kịp thu hoạch…” Tôi thật chết lặng người: Hay, hay! Thế rồi, tôi lại có dịp trở lại huyện, lần n{y v{o mùa hè… C|c bạ n có biết không? Trong đời tôi, thực chưa thấy có vườn hoa n{o đẹp hơn, rự c r ỡ hơn vườn hoa trước cơ quan huyện ủy. Tôi phát hiện thấy m ắt người bí thư huyệ n ủy long lanh ra chi ều muốn tôi hỏi về vườn hoa. Biết th ế, tôi h ỏi với giọng buồn bu ồn: Thế ra h ồi ấy anh vẫn kịp thu hoạch hạt giống hoa?
“V}ng, chính đồ ng chí thấy đ}y” – anh ta trả lời giọng ráo hoảnh. “Những bông hoa tuyệt vời!” – tôi nói. Anh ta cười rất thoải m|i: “Đất t ốt lắm ạ, Mikhin Timôpheêvích! Đất Umơrơchia m{!“Nhớ lại chuyện n{y, tôi cười thầm trong bụng, nhưng rồi vẫn không ngủ được và l ại nghĩ tiếp: Lúc gia đình chúng tôi chuyển t ừ Cuban đến Antai, Gasa m ới là một cô bé on. Bà v ẫn cứ nhắc lại mãi rằng, bà phải lẽo đẽo “như anh lính tốt đen” theo sau xe ngựa kéo chở chiếc m|y đập lúa “từ Nôvônhicôlaepxk”… Sau đó tôi được sinh ra ở l{ng Curia, v{ khi còn bé xíu tôi đ~ đượ c chuyển đến lên phía bắc hẻo lánh, trên chi ếc xe trượt tuyết v{o mùa đông. Sau nhiều năm, tôi về hẳn với Curia không ph ải bằng xương bằng thịt m{ “bằng đồng” – trên một chiếc xe t ải lớn, theo sau là chi ếc xe cẩu; Tôi được dựng tượng bán thân ở chính quê hương mình. Ở đó chị Gasa đang sống nốt quãng đời của mình – bức tượng bán thân kia sẽ ở bên chị và có thể l}u hơn! Họ hàng tôi ở đấy còn nhiều người lắm.
Nhưng, giờ đ}y, mảnh đất nào là quý giá nh ất, gần gũi nhất đối với tôi… Antai? Xibêri? Kazắcxtan?… Hay Umurchia, nơi tôi đ~ ở nhiều năm? Cũng có lẽ – một Umurchia lao động, thân ái, ranh mãnh m ột chút, nơi m{ có cả những bông hoa giấy cũng bừng lên rực rỡ…
MƠ VÀ THỰC Giờ tôi không thể nói chính x|c được tôi đ~ mơ thấy giấc mơ n{y từ khi nào, nhưng dường như l{, tôi luôn luôn mơ thấ y nó. Tôi nh ớ được bao nhiêu, thì mơ thấ y bấy nhiêu: Buổi chiều, tôi đang đi trên con đườ ng lạ, bi b iết rằng còn xa mới có nhà ở, mà trời đang tối dần. Tôi v ội r ảo bước ch}n, sau đó chạy, nhưng ng{y đ~ t{n, tôi l{m sao đuổi kịp, xung quanh t ối ối đen, không một đốm lửa… Có lẽ phải ngủ lại dọc đường, nhưng có một điều gì đó nhắc tôi rằng không thể ng ủ l ại được, trong lòng tôi không hề lo lắng mà tràn ngập một nỗi buồn cay đắng vì bất lực; Phải chăng ta không đủ sức để đi tới đích?
Tôi đ~ nhiều lần tìm cách giải nghĩa giấc mơ thường đến này, tìm mối liên hệ nó với cuộc sống thực t ại, mà tôi cho r ằng nhất định nó có thực. Ngay cả bây giờ tôi cũng không có thiên hướ ng nghiêng về th ần học, m{ lúc đó thì lại c{ng không, nhưng tôi vẫ n muốn khám phá nguyên nhân, k ết quả đúng đắn nào đó, tháo gỡ không phải các khối sắt thép mà là m ột cơ chế rất lạ, phức t ạp ạp hơn nhiều đó l{ cơ chế sinh học. Và các b ạn có lẽ sẽ hiểu tôi. Có một thời kỳ giấc mơ n{y cứ ám ảnh tôi m~i v{ tôi đặt thầm nhủ: Do qu| căng thẳng! Tất cả nguyên nhân là ở đó.
Nhưng giấc mơ cũ vẫn cứ ám ảnh tôi cho đế n t ận bây giờ. Một lần, tôi h{i hước buồn b~ nghĩ rằ ng ở một ý nghĩa n{o đó giấc mơ ấ y giống như “sản phẩm” AK-47 đầu tiên của tôi mà bây gi ờ người ta cải ti ến, s ản xu ất tràn ngập cả thế giới: Các chi tiết nhỏ được thay đổi, còn cấu t ạo và nguyên t ắc làm việc thì vẫn như cũ. Thế là, giống như trong giấc mơ kia, sả n ph ẩm của tôi cũng đang rong ruổi trên con đườ ng d{i vô định, biết là về đ}u. Có m ột lần, lâu r ồi, tôi k ể giấc mơ kỳ lạ của mình cho Climtrencô, ngườ i bạn tâm tình vốn là thợ nguội ở Minsk nghe. Ông cũng như tôi, l{ đạ i biểu Xô Viết l}u năm. Quan hệ giữa chúng tôi gần gũi v{ th}n thiết, chúng tôi rất hiểu nhau. Nghe xong câu chuyện ông nói: - Có th ể đ}y l{ giấc mơ tổ tiên truyền lại t ừ c|c đời cụ kỵ xa xưa, những người đầu tiên đến vùng Cuban t ừ một vùng xa lạ n{o đó, phải chăng l{ như vậ y? Rồi quyết định, rồi lại nghi ngờ, ph ải chuyển đi khỏi vùng đất đ~ quen thuộ c t ừ l}u. Con đường dài xa hút mang bao là cây s ố trên đường sắt. Tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi t ừ bao đời ấy giờ di truyền sang cậu – như l{ phần bổ khuyết cần thiết vào toàn bộ cái thiện trong ta, và chính vì th ế m{ ta mang ơn những người đ~ sinh th{nh ra ta… Đấ y, c ậu có nghĩ thế không? Rồi chính c ậu đ~ vượt qua bao đường đất trên những con đường to, nhỏ khác nhau. Ngay c ả khi còn niên thi ếu, cậu đ~ d|m dấn chân vào cuộc hành
trình xa xôi, trong r ừng Taiga, mà c ả đến người lớn, cũng chưa chắc dám liều thế. Rồi vượt vòng vây ngoài mặt trận, chuyến đi công t|c về c|c qu}n khu, c|c trường bắn, mà c ậu còn nói, đ~ đi dọc h ết được biên giới. Chiếc đồng h ồ ghi cây s ố riêng c ủa c ậu đ~ chỉ đên con số bao nhiêu? T ất, t ất những điều đó cộng hưở ng với giấc mơ di truyền dòng họ của cậu. Có lẽ không phải thế?… Cậu h~y nghĩ đi.
Nhưng lúc đó tôi chưa thật để ý đến lời nói của người bạn nay đ~ qu| cố; câu chuyện ấy ban đầu tôi đ~ quên v{ gần đ}y tôi mớ i bỗng nhớ lại rõ ràng, chi ti ết và sâu sắc hơn so với trước kia? Điề u này không ch ỉ ch c hứng minh rằng: Lứa tu t uổi làm ta vừa “lẩm cẩm” hơn nhưng cũng thông th|i hơn. V{ còn bở i những suy nghĩ căng thẳng dành cho cu ốn s|ch, trong đó tôi đ~ nhắ c t ới biết bao nhiêu đường đi lố i lại khác nhau. Lúc ấy, tôi lại th ức gi ấc vào nửa đêm, do giấc mơ quen thuộc t ừ lâu, với tay rờ tay nắm trên cánh cửa t ủ đầu giường, lấy ra cuốn s ổ tay. Không bật đèn, tôi bắt đầ u vi ết tên gọi cu ốn sách vừa đến trong đầu: “Từ ngưỡng cửa ngôi nh{ kh|c đế n cánh cổng th|p Xpaxki”… Bạn đọc sẽ hiểu rõ suy nghĩ: Phải chăng giấc mơ về con đường dài vô t ận – là giấc mơ truyền kiếp của nước Nga chúng ta?… Có thể cả một đất nước có một giấc mơ như thế ?
Ng{y nay đất nước ấy đang bước đi một cách rất khó khăn, v{ trở nên mệt mỏi hơn bao giờ hết. Trời s ập t ối ối nhanh chóng… tiếng chó sủa xa ở phía sau và hai bên. Còn phía trước – không một đốm lửa. Nhưng, cho dù phải chịu đựng những khổ ải đớn đau, cay đắ ng cực hình thì vẫn ốt hơn, còn xứng đ|ng hơn l{ trùm chăn tự t ự mãn trong giấc ngủ ngọt ngào. còn t ốt Như người xưa vẫn nói: núi cao thì mặc núi cao… ta không thể tránh, cần tiếp bước!
CHIẾC “HỘP ĐEN” CỦ A TÔI Năm 1930, khi còn đang học phổ thông, một sự kiện xảy ra trong làng chúng tôi đều rõ cả. Vào những năm xa xôi ấy, phải nói th ật rằng, đối v ới một số h ộ nông dân thực sự là m ột thảm họa. Liên t ục có các cán bộ được ủy quyền đến làng t ổ ch ức họp “bần cố nông” – như hồi đó vẫ n gọi thế. Trong các cu ộc họp này, tiến hành phân lại các hộ thành ba thành ph ần: bần cố nông, trung nông và cul ắc. Hộ nào thu ộc thành phần thứ ba thì bị t ịch thu tài sản, còn người thì b ị đi đ{y Xibêri xa xôi. Các cuộc họp thường diễn ra sôi sục, đôi khi kéo d{ i suốt đêm từ t ối ối đến sáng. Nếu bạn phát biểu tranh c~i, không t|n th{nh khi ai đó chưa tớ i mức “phú h{o” m{ đ~ bị liệt vào thành ph ần thứ ba, thì chính bạn sẽ bị quy l{ “culắc lớp dưới”. Vậy bạn có dám liều, có thử bênh che cho cho ngườ i láng giềng của bạn? Biết bao nhiêu nướ c mắt đ~ rơi, khi những người đượ c lệnh t ịch thu tài sản đến nhà. Những gì được coi là thừa đều bị lấy đi: gia súc, gia cầm, lúa mì, th ậm chí cả khoai tây là ngu ồn thực ph ẩm chính của người nông d}n cũng bị lấy. Họ khám xét kỹ xem anh ta có chôn gi ấu k ỹ ở đ}u đó không. Người nông dân không th ể tưởng tượng được khi nghe nói: “c|i n{y, c|i kia m{y thừa th ừa không được giữ”. Bọn tr ẻ con biết rõ bố m ẹ th t hằng nào tích cực ủng h ộ vi ệc tước quyền công dân và những ai có quá hai con ng ựa và số lượng c|c gia súc kh|c qu| quy định đầy đi Xibêri. Trong trườ ng h ọc b ắt đầu phân hóa, h ỗn loạn, ở đ}y, cũng ph}n rõ ra kẻ giàu người nghèo, thôi thì m ắng nhiếc, lăng mạ các kiểu, đôi khi dẫn đến ẩu đả dữ dội. Các t ừ mới: culắc, culắc cấp dưới, địa chủ, bọn ăn b|m… đ~ trở thành những t ừ thông dụng hàng ngày. Trong các tr ận ẩu đả “bọn ăn b|m” luôn bị buộc t ội, m ặc dù chúng chẳng bao giờ gây sự trước mà chỉ t ự vệ. Thế còn khoảng cách giữa giầu và nghèo có l ớn không? “Người giầu” thường là gia đình đông người nên phải nuôi gia súc, gia c ầm nhiều hơn. Đấy, ta thử phân tích ra mà xem. Vào một ng{y mùa đông, khi đến trường, chúng tôi đượ c nghe tin rằng, đêm qua có b ốn học sinh cùng cha m ẹ b ị đưa ra ga đường s ắt để sau đó đưa tiếp đi Xibêri xa xôi. Cô giáo k ể lại r ằng, cả làng nghe thấy tiếng khóc của những người bị đi đ{y. Điều n{y đ~ t|c động nặng nề đến nỗi, chúng tôi c ảm thấy như mình có tội trướ c những người bạn đang ở trên con đường vô đị nh Một năm học kết thúc, người nông d}n như thườ ng lệ, chuẩn bị bắt tay vào v ụ xu}n ngo{i đồng. Tôi l ại được nhà hàng xóm thuê d ắt ngựa. Khi thỏa thuận với nhau,
người chủ khen tôi vụ trước làm t ốt, bố tôi thật hởi lòng, h ởi dạ khi nghe tôi bi ết tiếp xúc với ngựa v{ chúng nghe tôi điề u khiển. Chỉ có ai đ~ từng làm vụ hè thu ngo{i đồng mới hiểu biết nỗi khó nhọc của công việc nhà. Trong nh ững ngày dài lê thê vô t ận ấy, t ừng ừng đ{n ruồi, muỗi, nhặng h|u ăn bay rào rào t ấn công anh. Anh phải đ|nh đuổi chúng không ch ỉ để bảo vệ mình… Anh vung roi quậ t vào những mảnh da ngựa rung rung đuổi ruồi, ru ồi thì chẳng chế, vết roi hằn lên da, nhìn mà xót xa cho thân con ng ựa và xót xa cho c ả chính mình. Tuy vậy, cuộc sống này trên mảnh đất ru ột th ịt nuôi sống ta vẫn được c|c nh{ văn chúng ta mô t ả thật l{ đẹp. Vậy nên, tôi chuy ển sang mô t ả một năm nặng nề ấy: Năm ba mươi mố t. Mấy th|ng đ~ trôi qua, kể t ừ khi đợt đầu các hộ nông dân bị đưa đi đ{y ở Xibêri. Họ h{ng th}n thích đ~ nhận đượ c những bức thư đầu tiên của người nh{ đang dầ n ổn định nơi ở mới. Đ~ có biết bao dòng nướ c mắt rơi khi đọc những bức kể về nỗi gian nan, bất h ạnh đổ xu ống đầu những người di cư đợt đầu. Đường x| đi lạ i không có, sự đối xử thô bạo của những người phụ trách và quân lính h ộ t ống, sự nghi kỵ của những người dân Xibêri s ống trong các làng heo hút, h ọ đề phòng người láng giềng bất đắc dĩ, đông con v{ thường l{ đói khổ .
Năm học mới bắt đầu, trong các l ớp học, giữa học sinh với nhau l ại bùng lên những trận c~i nhau, đ|nh nhau, thậ t khó mà hi ểu nổi nguồn gốc sinh ra nh ững vụ lộn xộn giữa nh ững đứa v ốn là bạn chí thiết c ủa nhau ấy. Ai chịu trách nhi ệm v ề t ất cả những t ội lỗi này? Và tr ẻ em như l{ một phong vũ biểu có độ nhạy cao, nó như đang b|o trước, những cơn b~o giữa những người lớn và mối đe dọa th ực sự đối v ới t ất cả chúng ta. Lại như năm ngo|i, đo{n c|n bộ được ủy quyền đặc biệt đến l{ng để t ổ chức giai đoạn hai đ|nh đổ culắc và chuẩn bị đưa người đi đ{y Xibêri đợ t hai. Lần n{y gia đình chúng tôi cũng nằ m trong sổ đen, nghĩa l{ sẽ bị “loại bỏ culắc như là một giai cấp”. Bố tôi hiểu rõ rằng t ừ những xung đột của trẻ con có thể dẫn đến những hậu qu ả khó lường, nên đ~ gọi cả s|u anh em chúng tôi đế n rồi dọa; “Đứa nào ức!” mà t ụ t ập, gây gổ với bọn con nhà bần cố nông thì tao s ẽ vặt đầu ngay lập t ức!” Chúng tôi biết rõ, b ố tôi không bao giờ nói suông cả. “Đứa nào cứng đầu” đ~ nhiề u lần biết rõ thế nào là tính tình nghi ệt ngã của người. Vào một ng{y mùa đông, người ta lùa vào chi ếc sân rộng nhà tôi một số lượng lớn bò, cừu đ~ được t ịch thu của các h ộ nông dân bị đ{y đi Xibêri…
Bao nhiêu s ức lực b ố tôi đều t ập trung vào làm kinh t ế, chiếc nh{ cũ của chúng tôi như đang run rẩ y không chịu nổi trước tiếng kêu ầm ĩ đủ giọng của cả đ{n gia súc lớn. Qua cửa sổ, chúng tôi th ấy những con bò mẹ cùng với những con bê, lợn, cừu và như l{ linh cả m th ấy cái ch ết sắp t ới, chúng cứ chạy quanh h{ng r{o để tìm lối thoát. Những con bò đực to lớn vốn tiếng rống của nó t ừ xa đ~ l{m cho tim ta như muốn rung lên, thế mà giờ đ}y tiếng nó khè khè, t ắc nghẹn, nặng nề quanh quẩn l{m đất bắn tung tóe v{o nh{ kho, v{o tườ t ường. Bất ngờ có mấy người đ{n ông khỏ e mạnh trong tay cầm rìu v{ dao đi v{o nh{ chúng tôi. Và lần đầu tiên tôi đượ c thấy cảnh chỉ cần đập một búa m{ ngườ i ta có thể hạ gục con bò mộng to lớn, tưởng như không ai thắ ng nổi nó. Khi hai ch}n trướ c con bò vừa khuỵu gối xu ống, đổ vật sang bên hông, người nông dân thứ hai nhanh chóng cắt c ổ con vạt. Nó như hồi t ỉnh l ại một chút sau cú đập, đị nh nhổm đứng d ậy, nhưng đ~ muộn, máu t ừ c ổ phun tung tóe ra sân. B ắt đầu xả th t hịt, xương bò, cừu… To{n bộ nội t ạng ạng được vất ra ngoài hàng rào thành m ột đống, trong đó nhìn thấy rõ những con bê và cừu non chưa đẻ đang cựa qu ậy… Mặc dù cảnh tượng thật là khủng khiếp, nhưng những người nông dân mình dính bê b ết máu vẫn cười đùa thản nhiên: “Thế là ta giúp ông ch ủ khỏi phải trông nom t ất cả chúng nhé, giúp các cháu nh ỏ khỏi phải nghĩ ra trò: chăn nuôi khoa học.” Về sau tôi mới hiểu ra! Nh ững người nông dân này là b ố của những đứa lớp tôi, nhà họ không có gia súc. Họ giết sau cùng bò và c ừu nhà tôi. Sau khi h ọ mang các súc th ịt và da treo trên một chiếc sào gác ở s}n đi khắp sân nhà tôi trông th ật khủng khiếp. Bố tôi sai anh em tôi lấy x ẻng hót tuyết l ấp kín c|c vũng m|u, nhưng xung quanh s}n chỗ n{o cũng có m|u đọng, nên phải hót tuyết t ừ vườn vào, và th ậm chí phải sang bên vườn nhà bên hất sang – Đó l{ một gia đình bị quy là culắc một năm trước. Nhà tôi ngoài sáu anh em trai còn có hai ch ị em gái. Các ch ị đ~ đi lấy ch ồng, v{ đ~
có gia đình riêng.
Chị cả Gasa đ~ có bốn cháu, còn ch ị Nhura m ới lấy chồng được một năm, nh{ chồng nghèo lắm nhưng hay lam hay l{m. Chồ ng chị Gasa l{ người c ộng sản đầu tiên trong làng. Ông biết gia đình tôi bị liệt v{o danh s|ch đi đ{y từ lâu nên c ấm tiệt chị Gasa đến nhà tôi. Bi ết làm thế n{o được, chồng chị vẫn là chủ gia đình m{! Ông đặ t Đảng lên trên hết. Và thế l{ chúng tôi cũng không đế n nhà ông nữa. Tôi nhớ có m ột lần, khi đi họ c về tôi nghe th ấy tiếng người lăng mạ ch ế ri ễu tôi t ừ một khe cổng túp lều xiêu vẹo. Tôi t ức lắm, chỉ muốn đập cho nó m ột trận, nhưng
nhớ t ới lời cha tôi d ặn, mà ông thì ch ẳng bao giờ nói suông cả… Tôi tức đến chảy nước mắt, đ{nh ch ạy xa khỏi túp lều để cho thằng đểu lười chảy xác, thậm chí không d|m đến gần ngựa ấy, khỏi nhìn thấy nh ững giọt nước mắt của tôi. Bố nó cũng lười biếng như nó. Người nhà chúng tôi và nhà láng gi ềng gọi ông ta l{ “h~i cả tiếng kêu của xe ngựa kéo”. Vài ng{y trôi qua, trong tĩnh lặng kh|c thườ ng, không nghe th ấy cả lời nói to, không tiếng gà gáy. Hôm ấy, có hai xe trượt tuyết chứa đầy rơm đến nhà chúng tôi. Ng{y ra đi về nơi vô định c ủa gia đình chúng tôi đ~ đến. Chúng tôi x ếp trên xe t ất c ả những gi có thể mang theo được rồi vội vã ngồi lên xe. Những chiếc xe xa lạ đưa chúng tôi rời khỏi ngôi nhà thân yêu c ủa mình. Tiếng khóc nức nở của m ẹ tôi trên xe, ti ếng gào của Nhura chạy đuổi theo xe làm cho anh em trai chúng tôi cũng chảy nước mắt. Bố tôi chỉ nói đi nói lại m ột câu khô khốc: “Thôi, thế l{ đủ rồi”. Anh trai c ả Vichto mới cưới vợ v{i ng{y trước đó đ~ đi trố n ở nhà khác. Công an tìm kiếm ráo riết, nhưng không thấy, vì vậy chúng tôi lên đườ ng không có anh ấy.
Sau đấy vài tuần, có một “người t ốt bụng” chỉ cho công an biết nhà anh Víchto trốn. Việc này phải trả giá bằng bảy năm lao động trên kênh đ{o Bêlamôr. Bảy năm sau khi được t ự do, Víchto h ỏi người phụ tr|ch: “Tại sao tôi phải cải t ạo bảy năm?” Người ph ụ tr|ch cười kh ẩy, nói: “Hả, mày không biết t ại sao {?” Người ph ụ trách xé bỏ t ờ giấy ch ứng nhận anh được t ự do và bắt quay về nơi cũ. Thế là m ất đứt hai năm nữa, anh mới được tuyên bố t ự do. Lần này anh chẳng hỏi han gì n ữa. Nhận xong giấy chứng nhận, anh lặng lẽ đi ra chẳng dám thốt ra nửa lời. Đo{n người đi đ{y của huyện tôi trong c ảnh nước mắt, khóc than c ủa phụ nữ và con trẻ, cuối cùng cũng đến được ga đườ ng sắt Pôxpelik. Ở đ}y đ~ có đo{n tầu gồm các toa chở bò, chờ chúng tôi. Đối v ới b ọn trẻ chúng tôi, ngay t ừ đầu đ~ cảm thấy các toa t ầu m ới tuyệt làm sao chứ! Vì chúng tôi có nhìn th ấy toa t ầu nào khác bao giờ. Bắt đầu x ếp lên toa. Làng tôi và làng bên vào chung m ột toa. Bố m ẹ chúng tôi biết họ, còn chúng tôi nhìn h ọ cứ như l{ nhìn người ngoại quốc. Những chiếc cửa sắt n ặng nề luôn đóng. Khi n{o dừ ng, ai muốn ra phải được phép của người chỉ huy đi hộ t ống đo{n tầu. Ánh sáng lọt vào toa qua các khe h ở ở c ửa và qua lỗ c ửa s ổ nhỏ xíu. Khi đo{n tầu chuyển bánh thì bố mẹ chúng tôi lấy chăn chắn một góc toa lại, để chiếc xô sắt to vào
đấy l{m nơi đi vệ sinh. Nhờ có bóng t ối trong toa và tiếng đập m ạnh c ủa bánh xe sắt nên có thể sử dụng nhà vệ sinh kiểu ấy được. Chỉ được phép đổ thùng khi t ầu đỗ, lúc ấy cánh cửa được mở, hay nói đúng hơn, được đẩ y ra một phía. Nh ững người đ{n ông có thể thực hiện thao tác này c ả khi t ầu đang chạy, để tránh mùi khó ch ịu bốc lên trong toa kín mít, có lò sưở i gang. Đ~ đến ga cuối cùng, ga Taiga (r ừng rậm). Mọi người vội vàng xuống toa, chất đồ đạc lên xe trượt tuyết. Người lớn mang đồ đạc vào lán trại, chờ ở đó khi n{o có xe ngựa đến đón thì đi tiếp. Lán trại làm bằng gỗ, trong đó có sạp ván bốn t ầng làm chỗ ngủ. B ọn tr ẻ chúng tôi chỉ trong nháy mắt đ~ trèo tót lên tầng bốn, sát mái. Bố mẹ chúng tôi thì ở t ầng dưới. Sau hai ngày ở đ}y, được cấp một số thực ph ẩm, thì có một đo{n xe ngựa d{i, đủ các kiểu khác nhau, do nh ững người nông dân râu tóc r ậm rạp đến đón chúng tôi tới huyện B|ctrarơxki. Huyệ n này ở đ}u, nó như thế nào không ai bi ết. Nếu có hỏi sẽ được trả lời ng ắn gọn: “Bí mật quốc gia”. Con đường đi n{y d{i hun hút v{ đầ y gian nan. Nhưng rồi vẫn đến được B|ctrarơxki. Những người đ{n ông đ|nh xe phả i vất vả cùng chúng tôi suốt chặng đường dài, vội vàng vứt đồ đạc chẳng có gì đ|ng gi| củ a chúng tôi xuống những đống tuyết s}u. Đến rồi.
Người chỉ huy đeo súng lục bên hông, chuyển danh s|ch đo{n chúng tôi cho người chỉ huy địa phương nơi chúng tôi thuộc quyền qu ản lý. Nhiệm vụ c ủa người ch ỉ huy địa phương l{ ph}n chia chúng tôi đến các làng mạc trong rừng. Bắt đầu có những lời cầu xin ai đi cùng với ai, còn đi đ}u thì không quan t rọng. Tôi nghe th ấy ai đó nói với người chỉ huy: “Thưa đồng chí chỉ huy”, nhưng anh ta chẳng cho nói tiếp lời yêu cầu. Anh ta nói to dõng d ạc để cho mọi người đều nghe thấy: “Ở trong ừng Brian này, đồng chí của c|c người là chó sói, còn ta v ới c|c người là ông chỉ huy. Hãy nh ớ su ốt đời là chỉ được xưng hô với ta như thế.” Ai đó không chịu nổi, nói nhỏ, như l{ lời cầu khẩn “Rõ khổ, gọi bằng đồng chí nó đơn giản dễ gọi hơn, chỉ có thế thôi”. Người chỉ huy sửa lại bao súng lục, nói giọng giáo huấn: “Những gì m{ c|c người có giờ không còn nữa. Trước mặt c|c người giờ chỉ l{ “ông chỉ huy”. Sau sự việc này, trong óc tr ẻ thơ non nớt c ủa tôi cứ ph ỏng đo|n m~i sự khác nhau giữa đồng chí” v{ “ông, ng{i” l{ ở chỗ nào? Những năm sau đó, nhiề u lần có mặt ở các cuộc h ọp của l{ng, tôi còn được nghe đi nghe lạ i mãi những lời giáo hu ấn đầy đe nẹt
nạy. Vẫn thế, tôi chẳng hiểu gì, và d ần dần cũng quen: Tôi – cũng có thể gọi là ông công dân.
Đầu tiên, người ta dẫn chúng tôi đến những con đường gập ghềnh để đến làng Rêu Trên, nhưng được vài ngày lại bảo đi tiếp. Lần n{y chúng tôi đến l{ng Rêu Dướ i. Ở đ}y chúng tôi được cấp một cái nhà bỏ không: tùy ý mà sắp xếp, tu bổ. Láng giềng của chúng tôi là nh ững tín đồ cựu gi|o, người Kerơgiắ c. Họ cư xử với chúng tôi không được thân thiện. Vâng, ai mà mu ốn thân với cả một đo{n qu}n đói rách có nh ững năm thằng quỷ s ứ chúng tôi. Nhưng người d}n lương thiện Kerơgiăc sợ đến mùa hè t ới, anh em chúng tôi s ẽ “thu dọn sạch” vườn tược của họ chăng? Những lo ngại đó l{ vô ích. Vì bố tôi đ~ răn đe anh em chúng tôi nghiêm kh ắc đến mức, chúng tôi tr ở thành t ấm gương tốt không chỉ ở làng mà còn ở cả toàn vùng
người đi đ{y.
Sau này t ừ “người đi đ{y” được thay bằng t ừ “người di cư đặc biệt”. Chúng tôi bắt đầu đi học ở trường phổ thông mới được thành lâp. Mùa xu}n đến, chúng tôi bắt đầu chuẩn bị công việc l{m đồng. Công cụ lao động chính l{ rìu, cưa, xẻng. Trên các kho ảnh đất rừng, chúng tôi ph ải đ|nh gốc cây, cuốc đất, gieo hạt và r{o kín xung quanh. Lao độ ng thật nặng nhọc c ực kh ổ. Rồi lại còn bị ru ồi, muỗi đông vô kể quấy nhiễu, hành hạ. Không có cách gì ch ống lại chúng được, kể cả màn quấn v{o đầu vào cổ. Vào vụ xuân, t ất c ả đều ra đồng, t ừ đứa tr ẻ m ới biết đi đến ông già, bà già ốm yếu. Một cu ộc đấu tranh sinh t ồn trong những điều ki ện quá sức người c ủa nh ững người di cư bắt đầu. Có m ột điều th ật hi ển nhiên là: muốn gieo hạt, muốn tr ồng rau, nhưng tìm đ}u ra hạt giống? Thôi thì gom góp m ọi thứ có trong nh{ đem đi đổi ch|c để lấy lương thực, thực phẩm làm giống và sống qua ngày. Tất c ả m ọi người, luôn hy vọng vào vụ t ới, hay có thể nói, sống bằng hy vọng… Thật khó có th ể diễn đạt bằng lời, cảnh chúng tôi hy vọng, chờ đợi vào vụ thu hoạch đầu tiên ở chỗ mới đến như thế nào. Tôi còn nhớ rõ, vào m ột ng{y mua thu, chúng tôi đi gặt. Lúa đạ i m ạch đ~ chín. Do chưa quen gặt tôi đ~ cứa liềm phải ngón tay trái một vết sâu. Ở nông thôn mọi việc thật đơn giản: l ấy ít tàn thuốc lá cuốn r ắc vào vết thương l{ xong. Cho đến gi ờ, trên ngón tay tôi vẫn còn vết sẹo nhắc tôi những ng{y khó khăn ấ y.
Chúng tôi chỉ vừa mới bắt đầu quen dần với nơi ở mới, kinh t ế gia đình mới t ạm ổn định một chút thì c ảnh đau thương khủng khiếp đ~ đổ ập xuống gia đình chúng tôi: do làm việc quá sức cha tôi đ~ chết.
Người luôn l{m gương cho chúng tôi noi theo. Hình như cho đế n nay tôi vẫn còn nghe thấy gi ọng nói giễu c ợt của người: “Không sợ bàn tay nhem nhuốc, không sợ – Trong b{n tay đen l{ đồ ng bạc trắng!” Phải như thế. V{ người đ~ chờ đợi đồng bạc đó, tất cả vì chúng tôi, người đ~ ng~ gụ c. Mẹ tôi phải gánh chịu nỗi đau qu| sức nơi đất khách quê người. Mùa đông năm ấy, mọi người đều cho r ằng, đó l{ mùa đông kh|c thường và nhiều tuyết. Khi bố tôi hấp hối thì bão tuyết nổi mạnh, còn lúc người chết thì nó gầm rú càng dữ d ội hơn. Không thể đi ra khỏi nh{ được, m ới ló mặt ra ngo{i, đ~ không chị u nổi. Thế là thi th ể bố tôi được đặt v{o phòng không sưở i ấm bên cạnh một tuần. Ôi! Trước kia ở Curai, nh ững ngày khi thời tiết như thế này chúng tôi m ới hạnh phúc l{m sao. Lò sưởi ấm r ực, m ẹ tôi ngồi ch ải len, các ch ị đan len, mấy anh em trai hí hoáy làm việc vặt gì đó, một người c ầm cuốn s|ch đọc thơ, rồi b ỗng nhiên, bố tôi cất tiếng hát. Tôi run lên vì rét khi đến gần cửa phòng lạnh, nơi bố tôi nằm, tôi lắng tai nghe thật lâu, thật l}u, v{ dường như tôi nghe thấy đ}u đ}y văng vẳ ng tiếng người vang lên trầm trầm… Nhưng không, người không còn ca ng ợi “Baican thiêng liêng”, ngườ i không còn là kẻ lang thang ch ạy trên con đường mòn hẹp của thú r ừng, không còn là hàng kỵ sĩ côdắc cưỡi ngựa vượt qua thảo nguyên – qua các mi ền xa xôi “vùng Kazắcxtan”… Chỉ có cơn b~o tuyết qu|i |c ho{nh h{nh quanh ngôi nh{ cũ n|t củ a chúng tôi, và bão gi ật t ừng cơn như muốn hất bỏ mái nhà b ằng vỏ bạch dương xuống đất. Tôi đứng mãi bên c ửa, thật l}u đến nỗi mẹ tôi phải đến và nói: Con làm gì th ế? Nước mắt đông cứng lại rồi. Khi bão tuyết ng ưng, thì ngựa l ại không thể đi nổi, tuyết cao ngập mũi ngựa. Đ{nh phải để quan tài bố tôi lên b{n trượ t tuyết kiểu rừng taiga để kéo. Khi ra nghĩa địa, anh em chúng tôi b ị t ụt ngập đầu và khóc trong cái h ố tuyết, mãi sau m ới kéo nhau lên được v{ đi tiếp. Nhà tôi trống vắng như nh{ không chủ , thật khó tưởng tượng được chúng tôi sẽ sống ra sao sau khi m ất bố. Người biết làm mọi việc, còn chúng tôi m ới học được ở người không đ|ng bao nhiêu. Mọ i việc đều hy vọng vào các anh lớn, còn tôi vẫn được đi học.
Ở làng tôi chỉ được h ọc đến l ớp b ốn. H ọc tiếp ph ải đi xa mười lăm kilômét ở làng khác. Về mùa đông, khi thời ti ết t ốt, m ột tuần m ột l ần vượt qu~ng đường này thì rất
thoải mái. Còn về mùa xuân và mùa thu, khi nh ững đống tuyết dày tan hết hoặc chưa đóng băng cứng k ịp, thì đi lại c ực k ỳ kh ổ s ở. Su ốt qu~ng đường đi phải dùng các cây gỗ để lót đường mới đi được. Không chỉ mỏi chân mà còn m ỏi m ắt. Phải chú ý nhìn t ừng bước đi để khỏi t ụt xuống đầm lầy. Có những chỗ chúng bu đen lại thành m ột đống trên cây g ỗ, có chỗ chúng lại bay lượn thành cả m ột vùng d{y đặc thật khó mà qua được. Và nếu ch ạy thì cứ phải xua liên t ục và lấy tay đập vào mặt để đuổi và giết chúng rồi l ại ph ải vung tay để lấy thăng bằng, lúc một tay, lúc c ả hai tay. Được h ọc ở trường phổ thông Vôrônhikhin th ật thích thú. Nh{ trường có một t ập thể giáo viên giỏi, họ cũng l{ những người di cư như chúng tôi. V{ c|c thầ y cô giáo mu ốn truyền lại cho chúng tôi t ất cả những gì mà họ có thể. Hiện giờ, nhiều học sinh đ~ mất, huống hồ nói gì đến các thầy cô, nhưng tôi vẫn muốn, dù cho là mu ộn, cúi rạp đầu sát đất kính cẩn gửi đến các thầy cô lời cảm ơn muộn mằn của một trong những học sinh giỏi nhất nhưng cũng nghịch ngợm nhất của trường. Tôi vẫn hình dung rõ nét ngày ấy các thầy cô đ~ phải làm việc v ất v ả như thế nào: Tất cả học sinh đều ở phân tán ở các làng khác nhau, n ếu muốn liên lạc với bố mẹ cũng đ{nh chịu; r ồi sách giáo khoa, v ở viết, giấy bút đều không đủ. Chúng tôi lấy vỏ bạch dương l{m giấy, vở. Ngày nay các nhà bác h ọc ở thành phố Nôpgôrơt cổ vẫn giải mã chữ viết trên vỏ cây bạch dương, nhưng chính giấ y bạch dương của trường Vôrônhikhin chúng tôi cũng sẽ kể ra được nhiều điều. Nó thấm đượm mồ hôi, thấm các vết máu những con muỗi bị đập chết! Dần dần chúng tôi có c ả sách giáo khoa trên vỏ cây: Tôi còn nh ớ, theo yêu c ầu của cô gi|o, chính tôi đ~ khắc bảng cửu chương cho lớp một. Câu thành ngữ Nga thật chí lý: “c|i khó không bó c|i khôn”. Nhưng tại vì sao mà cái nghèo, cái khó c ứ bó mãi ta không d ứt thế? Những năm tiếp theo lại trôi qua, và m ẹ chúng tôi quy ết định gắn cuộc đời mình với người hàng xóm. Ông ta có ba con: hai gái, m ột trai. Ông l{ người Ucraina chăm chỉ, hay l{m đ~ thuyế t phục được mẹ chúng tôi gắn bó cuộc đời với ông… Sự xu ất hi ện c ủa ông trong nh{ chúng tôi đ~ l{m cho tôi c|u kỉ nh, giận d ữ. Nhưng với tính kiên trì, ch ịu đựng vô hạn và lòng t ốt bụng, cuối cùng ông đ~ chinh phục được t ất c ả chúng tôi. Lúc thì chúng tôi chưng nhự a t ừ gỗ trong rừng, lúc thì đốn g ỗ, làm nhà mới, lúc thì x ẻ ván lát trần và nền nhà, công việc nhà nông thiếu gì. Và t ất cả mọi việc nay đều được l{m dướ i sự chỉ bảo vui vẻ, thân thiện của người bố dượng không biết mệt của chúng tôi. Ông gọi tôi là Misa l ớn, còn con trai ông ít hơn tôi ba tuổi thì ông g ọi là Misa bé. Các công vi ệc nặng nhọc, ông cũng chia đều như nhau không giảm bớt cho Misa bé. Chính vì th ế m{ gia đình mới của chúng tôi luôn đo{n kết lại thành một khối. Nhưng vẫn có những gi}y phút cay đắng.
Thông thường nếu t ất c ả m ọi người ở nhà chúng tôi v ẫn ăn trưa cùng nhau, thế là xuất phát chính t ừ đ}y, tôi bắt đầu b ị dày vò dằn vặt: tôi phát hi ện ra mẹ tôi đ~ tìm mọi c|ch cho tôi ăn thêm mộ t cách thật khôn khéo!… Lúc thì cứ l{m như vô tình mẹ
tôi đặt lại cái chảo, c ố ý quay phía có mi ếng thịt to hơn, béo hơn về phái tôi. Lúc thì cứ quấy cháo thật lâu và kỹ nhằm cho cục b ơ cuối cùng tan đúng v{o phía đố i diện với tôi. T ất cả những việc làm ấy của mẹ, làm tôi bị mất thăng bằng, tôi không ăn tiếp, đứng d ậy nói rằng tôi đ~ no. Những lúc như thế , m ẹ tôi rất lo, nhưng mẹ không bao giờ nói gì về việc này cả. Tôi bắt đầu ấp ủ ý t ưởng trở v ề quê với các chị gái. Tôi cho r ằng ở đó tôi sẽ sống yên ả hơn. Cả mẹ tôi và c ả bố dượng đều không tán thành, tìm m ọi cách có th ể để ngăn cản kế hoạch đó của tôi, nhưng cuối cùng thì họ cũng hiểu rằng, không thể ngăn tôi được, và chuẩn bị mọi thứ cần thiết trên đường đi v{ cùng c|c thứ mà khi ở nhà các ch ị đ~ cho tôi. Chuẩn bị thức ăn cho cả chuyến đường dài. Bố dượng tôi đặt vào túi tôi t ờ giấy ghi c|c điểm d}n cư m{ tôi sẽ đi qua. Để có được mảnh giấy đó ông đ~ phải mất nhiều thời gian h ỏi thăm những người đồng hương v{ cả những người Nga vốn thông thạo đường đi trong vùng v{ c|c con đường đi xa nữ a. Thế là, vào gi ữa mùa hè nóng n ực, tôi t ạm biệt người th}n để tiến bước vào con đường xa xôi. V ới tr|i tim đập rộn ràng, t ừ rừng taiga khắc nghiệt đến thảo nguyên mênh mông, t ừ c|nh đồng đang cắt cỏ n{y đến c|nh đồng c ỏ kia, tôi ch ạy, tôi đi, tôi bay về phía Antai yêu d ấu.
Lúc đầu tôi đ~ gặp may! Trên đường đi, khi gặ p t ụi con trai cùng lứa hơn kém tuổi không đ|ng kể , chúng tôi trò chuyện thân mật với nhau, ai nhớ và thuộc b{i thơ n{o yêu thích thì đọc cho nhau nghe, thế l{ đ~ kết thành bạn và buổi t ối lại t ập trung ở nh{ ai đó dể cùng nhau tiếp t ục “sinh hoạt văn thơ”. Giống như c|c buổ i t ối, chúng tôi g ặp nhau trò chuyện ở Curia đ~ l}u rồi! V{ cũng như tôi đang ở nhà mình: mọi người cho tôi ăn, sắ p xếp cho tôi ngủ lại… Sao lại có sự tin cậy đến thế nhỉ? Giờ đ}y, liệu lòng tin đó có còn ở chúng ta hay không? Hay l{ đ~ bị mai một xói mòn bởi nh ững trò lừa đảo, lợi dụng lòng tin để cuỗm sạch sành sanh những gì ta có… Còn lúc bấy gi ờ, khi tôi g ặp c ậu bé cùng trại tôi ở rìa làng, tôi chào h ỏi l ịch tiệp và lập t ức đọc luôn: - Pête đi chăn cừu Sống trên đời cực khổ…
“Tớ không phải Pête, – Cậu bé người địa phương cườ i mỉm – m{ l{ Paska!” - Ừ thì Paska! – tôi nói.
- Paska chăn cừu Sống trên đời cực khổ
Đ{n cừu non vỡ t ổ Chạy tán loạn khắp rừng! - Sao cậu biết? – Cậu bé ngạc nhiên một cách chân thành. - Tớ biết hết! – Tôi nói m ạnh dạn – Tớ l{ người như thế mà. Một lần tôi được nghỉ lại ở một gia đình người Ucraina. C ả nhà nghe tôi nói chuyện, đọc thơ rất lâu, t ỏ rõ lòng thương đối với tôi. Bà ch ủ nhà bảo tôi: “N{y ch|u, ch|y h~y đọc thơ Ucraina đi, thơ của Micôla về nh{ trường ấy. Nhưng thằng Ivancô nhà bác nó lại không thích, rõ th ật uổng phí!” Những câu thơ không bao giờ mất đi uổng phí – tôi còn nh ớ chúng m~i đến bây giờ. Có biết bao lần sau đó, trong c|c ho{n cảnh khác nhau, tôi l ại có dịp “kể lại” những vần thơ Ucraina! Hôm ấy, trong căn nh{ ngườ i Ucraina b ị đầy biệt xứ t ốt bụng, tôi đ~ học thuộc chúng, và lần đầu khi đọc thuộc lòng, trong tôi hình như ho{n toàn biến m ất nh ững gì tăm tối, hoang sơ nhấ t, và bỗng bùng lên niềm hân hoan ấm áp. Nếu như còn gặp lại, tôi nghĩ, thể n{o tôi cũng sẽ đọc b{i thơ n{y cho mọi người thân thích, ru ột thịt và nhất là cho cả mẹ và bố dượng tôi cùng nghe.
Sau đó tôi đ~ gạp tai họa. Sang ngày thứ năm hay thứ s|u gì đó, tôi đi cùng đườ ng với một người đ{n ông trung tuổi, vai đeo túi, tay cầm một cái gậy to. Suốt ng{y cho đến t ận chiều tói, ông kể cho tôi nghe đủ các chuyện nổi tiếng trên đời, dần dà tôi tin ông ta. Có l ẽ tôi đ~ vô thức đặt ni ềm tin ch}n th{nh v{o ông ta như l{ tôi đố i x ử chân thành với m ọi người tôi gặp.
Sẩm t ối ngày thứ bảy, chúng tôi đến gần một l{ng. Tôi đề nghị vào nhà xin ng ủ nhờ theo phương c|ch m{ tôi đ~ l{m trước đó. Ông ta phản đố i quyết liệt, giải thích rằng họ sẽ bắt và giải v ề đồn công an, sau đó chắc ch ắn sẽ bị giải về nơi xuất phát, r ồi ông càng làm cho tôi thêm lo ng ại và sợ hãi. Khi ông b ảo, trước khi trời t ối còn gì trong túi thì ăn nốt, tôi bèn sốt sắng đồng ý ngay: chả hiểu sao, lúc ấy tôi lại rất muốn ăn.
Sau đó, ông bả o tôi t ốt nh ất c ứ ẩn n|u đ}y đấy đ~ để ông t ự vào làng trinh sát. Tôi đợi mãi và lo l ắng mong ông trở về. Cuối cùng, mãi m ới nghe thấy tiếng ch}n bước thận trọng của ông trở v ề. Ông thông báo cho tôi bi ết, đ~ tìm được một chỗ an toàn lý tưởng. Tôi đi theo ông một cách tin cậy v{… thật đ|ng sợ! Chúng tôi đứng cạnh một nhà t ắm nhỏ ở m~i góc vườn sau của một nh{. “Sợ gì? – Ông ta bắt đầu thuyết phục tôi – Hơi ấm vẫn còn đ}y n{y, c hủ nh{ l{ người chu đ|o, nề n cọ sạch sẽ lắm”. Không hiểu sao tôi không thích ng ủ xa người và lại không hỏi qua chủ nh{, nhưng ông ta hích tôi đến cửa nhà t ắm: Này nhìn mà xem! Quả thật, trong nhà t ắm rất sạch sẽ, mùi lá bạch dương bốc lên thơm phức, nhưng tôi cứ thấy sờ sợ và nghi ngại. Nói vậy thôi, chứ biết làm gì bây giờ? Cứ ngủ đ~. Tôi sửa l ại túi đồ đạc cho phẳng phiu để làm gối đầu, có biết đ}u sau đó tôi đ~ vĩnh viễ n phải chia tay với nó. Sáng sớm tôi ngồi bên cạnh cái nhà t ắm rủi ro, v{ suy nghĩ môn g lung: Tôi bi ết làm gì tiếp đ}y? Chủ nhà thấy tôi khóc sướt mướt liền hỏi: Sao lại ở đ}y? L{m sao m{ khóc?… Nghe tôi kể xong, chủ nh{ đưa tôi v{o nh{, ông b{ tỏ ra xót thương tôi hồi lâu: Sao cháu l ại tin người qua đường như thế được?… B{ chủ nhà bảo tôi ngồi xuống b{n ăn, múc cho một bát súp cải bắp to, lạnh v{ đưa cho tôi miế ng thịt. Tôi cảm ơn chủ nh{ v{ ăn hết ngon lành, rồi uống một cốc sữa tươi cuối cùng. Chủ nhà ngồi cạnh nhìn tôi ăn uống vẻ xót xa. Sau đó ông b{ chủ nhà t ốt bụng v{ thương người cung cấp cho tôi thức ăn đi đường và rân rấn nước mắt khuyên tôi: Vì Chúa Tr ời mà cẩn thận nhé, Misa! Chẳng được bao lâu, th ức ăn đ~ hết, m{ đường đi thì xa lắc xa lơ. Tôi ng{y c{ng bị đói dữ. Nhưng biết l{m gì? Hay l{ ăn trộm? Tôi đ}u biết ăn trộm m{ tôi cũn g không thể l{m được việc này. Bỗng tôi nhớ lại cảnh những người nghèo khó đứng dưới cửa sổ nhà tôi, khi còn ở Curia xin b ố thí. Mẹ tôi dặn chúng tôi rằng khi cho người ăn xin thì quay mặt v{o tượng Chúa.
Còn đối với tôi phải nói thế n{o cho người ta thương xót chứ? Và làm sao cho h ọ đừng coi khinh tôi? Không, tôi thà ch ết đói chứ không thể nói được những câu này!
Lúc đó tôi có cảm gi|c hình như tấ t cả các làng mạc m{ tôi đi qua hầu hết là nghèo, còn con người trong đó đều |c độ c. Nhiều lần, tôi thử chọn một nh{ n{o đó giầu hơn nh{ kh|c, đế n gần, định gõ cửa, giơ tay lên không nói, c|nh tay như cứ ng l ại. B ởi vì gõ cửa đ~ đ{nh, chứ sau đó phải nói những câu nặng nề không chịu nổi, thì làm sao mà tôi th ốt nên lời được. Và tôi l ại rời chân khỏi ngôi nhà xa lạ. Cứ thế mất đúng hai ng{y. Đôi ch}n tôi đ~ khuỵ u xuống vì đói, trong đầu chỉ có duy nhất một ý nghĩ: phải kiếm c|i gì để ăn, nhưng khi đến gần một nh{ n{o đó, thì hình như lại bị chính mình đẩy ra xa. Tôi l ại thầm nhủ: Không, tôi không th ể nói lời van xin được!… Nhưng lúc đó c|i đói lại kh ẩn thiết yêu cầu: H~y quên lương t}m đi. Thế n{o l{ “c|i tôi của riêng mình”, về điều này các thầy giáo bị đ{y ở Vôrônhikhin đ~ nói cho anh nghe nhiề u rồi còn gì!? H~y quên nó đi. Cóc cần đế n nó. Tôi không bi ết sự thể sẽ như thế nào, nếu tôi không gặp được một bà có tuổi, nét mặt phúc hậu. Biết được c ảnh khổ s ở c ủa tôi, bà ôm chầm lấy tôi m{ nói: “Con ơi, đi ăn trộm mới nh ục và xấu h ổ, chứ đi xin khi sa cơ lỡ bước thi không phải x ấu h ổ. Hay l{ chưa có ai nói vói con điề u này bao giờ: lòng nhân t ừ của chúa Trời là bao la, s ẽ có cả phần dành cho con. T ổ quốc ta không chỉ sống nhờ v{o ơn Trời mà còn nh ờ vào lòng nhân t ừ, bác ái c ủa con người nữa. Con không ph ải là kẻ hành khất, mà là là m ột cậu bé thông minh, nền n ếp, không phải lòng t ự hào nhắc nhở con, mà chính là thói
kiêu căng đ~ kìm giữ con. H~y vượt qua thói kiêu căng đó!” B{ nói xong, đi khỏi.
Sau này, nhiều lần tôi trở lại với ý nghĩ: Sao chính b{ lạ i không muốn cho ta m ột mẩu b|nh mì? Đôi lúc tôi lại nghĩ: Biết đ}u b{ cũng chẳ ng có gì c ả, hay có th ể là t ừ nơi kh|c đến, không phải người làng này? Chắc đúng l{ không phải người vùng này! Có thể… Những phỏng đo|n ng{y ấy, đến nay cũng vẫ n chỉ là phỏng đo|n. Nét mặt phúc hậu như thế, cái nhìn trìu m ến như thế, và giọng nói thấm thía đến thế. B{ đ~ cho tôi c|i quý gi| hơn b|nh mì nhiề u, cho tôi s ự hi ểu bi ết m{ trước đó tôi không có v{ b}y giờ tôi đ~ |p dụng ngay. Chính nhờ điều đó đ~ cứu sống tôi. Thực ra, mãi về sau này tôi m ới tư duy được như thế, và không hiểu sao cho đến t ận bây giờ, tôi vẫn thường nghĩ thế, còn lúc bấy giờ thì tôi ở trong trạng thái tinh thần hoàn toàn khác. Tôi không còn nh ớ, tôi nói thế nào khi lần đầu, lần thứ hai đứng dưới cửa sổ nh{ người ta để xin ăn. Tôi không nhớ người ta có nhìn tôi không. Th ế nhưng điều này thì hằn sâu trong ký ức tôi: trước khi nuốt miếng b|nh mì, tôi đ~ nuốt hết nước mắt, v{ hình như nước mắt còn cứng hơn cả bánh mì.
Thú thật lúc đầu tôi định không nhắc đến điều này trong nh ững trang viết của mình, nhưng nếu im lặng thì hóa ra không chân thành và thi ếu công bằng. Thế l{ tôi đến được ga Taiga và t ừ đ}y tôi có thể đi “lậu” trên tầu h{ng đế n Pôxpelik. Và t ừ Pôxpelik đến Curia đi bộ mất 65 km. Ngày hôm ấy tr ời nóng, tôi tháo bỏ gi ầy, đi ch}n không vượ t m ột ch ặng đường xa. Chẳng bao l}u cơn kh|t ho{nh h{nh tôi dữ dội, tôi cứ thấy một ảo ảnh xuất hiện suốt trên đoạn đường phía trướ c: Kia rồi, nước – Nước kia rồi! nhưng l{m gì có nước.
Đến khuya thì tôi v ề được đến nhà chị Nhura, còn cách Curia không xa m ấy. Khi thấy tôi, chị không tin vào mắt mình nữa. Cứ nhắc đi nhắc lại mãi một c}u “Có phải em Misa đ}y không?… Có phải em không?!” Rồi ch ị rên rỉ, than vãn; Làm sao mà em có thể vượt qua được ch ặng đường dài, gian nan v ất v ả, và nguy hi ểm như thế được. Mẹ, anh em ra sao, ông b ố dượng thế nào? Tôi b ắt đầu k ể h ết moi chuyện còn chị thì lại đặt ra bao nhiêu là câu h ỏi mới, không biết lấy đ}u ra m{ lắ m thế!… Thế còn chuyện ngủ trong nhà t ắm và tôi bị đói như thế nào, tôi không k ể ngay mà mãi t ận mấy ngày sau chị đ~ nguôi nguôi tôi mớ i kể. Sau khi ngh ỉ ngơi được hai tuần, tôi nghĩ đ~ đến lúc phải làm việc gì đó. Tôi quyết định xin đi đốn gỗ cùng với mấy ông nông dân trong làng. H ọ đồng ý cho tôi đi nhưng họ nói trước là công việc rất nặng nhọc. Tôi sẵn sàng chịu đựng t ất cả, miễn là không ăn b|m gia đình vốn đ~ nghèo củ a chị. Việc đốn gỗ trong rừng thật quá sức với tuổi tôi. Tôi được giao việc đốn cành. Quần áo rách r ất nhanh. Giầy bị h ỏng, không đi được. Thấy không thể làm tiếp được, tôi xin thanh toán ti ền công. Họ tr ả tôi hai mươi nhăm rúp , ti ện xe đi qua tôi về làng luôn. Chị Gasa định giữ tôi ở nhà chị nhưng cảm thấy chồng chị không thân thi ện với “thằng con culắc”, nên tôi lại quay về nhà chị Nhura. Và, m ột lần nữa tôi lại c ảm th ấy mình như l{ người thừa trong c|i gia đình nghèo khổ của chị Nhura. Tôi quyết định, khi mùa hè còn chưa kế t thúc, phải quay lại Xibêri: Ở đó tôi có bao nhiêu là bạn bè v{ người thân. Vả lại, tôi còn phải tiếp t ục đi học nữa. Chị Nhura thuyết phục mãi tôi b ỏ ý định n{y, nhưng tôi một mực không nghe. Và quyết định trở về Curia l ần cuối để nhìn lại mảnh đất nơi chúng tôi đ~ ở ng{y xưa. Nhà cửa, rào gi ậu chẳng còn một tí dấu vết n{o. Tôi đi vòng quanh, tưởng tượ ng ra vị trí của c|c công trình xa cũ. Những người làng giếng ngạc nhiên thấy tôi ngẩn ngơ, quanh quẩn ở khu đất cũ nh{ tôi, sau n{y họ có nói với chị Gasa rằng: “Thằng Misa nhà chị tìm gì mãi ở ch ỗ cũ, hình như l{ tìm v{ng”. Chị tôi trả l ời r ằng, khi bố m ẹ tôi
ra đi, chị đ~ x|ch xô đến định lấy một xô khoai t}y dưới h ầm chứa, nhưng người ta đ~ cuỗm s ạch h ết, phá tan tành cả h ầm ch|y. Đấy, v{ng cho c|c người đấ y, chứ vàng ở đ}u. Lúc ra đi chúng tôi không hề nghĩ sự việc lại như thế. Khi tôi đứng trên đống hoang tàn của ngôi nh{ xưa, tôi không nghĩ đế n vàng mà nhớ lại những c}u thơ của Xecgêi Ẽenhin, những câu thơ viết trên vỏ bạch dương, được truyền tay nhau ở trường Vôrônhikin “Ở đ}y tôi chẳng quen ai. Nh ững người xưa cũ từ l}u đ~ quên rồi. Ngôi nhà cha m ẹ còn đ}u. T{n tro bụi phủ một màu tang thương”. Thế là tôi lại lên đường. Đến ga đườ ng sắt Pôxpelik tôi đi nhờ xe ôtô qua đường, v{ đi tiếp một cách dễ d{ng đến ga Taiga. Còn đoạn đường đi bộ mới c ực kỳ vất vả. Trên đường phải vượt qua bao nhiêu là con su ối to nhỏ, đang kh|t, tôi thả sức u ống cho đ~. Sang ng{y thứ hai thì b ị đau bụng quằn quại, không thể đi tiếp. Tôi cố lê bước đến gần được một ngôi nh{ có ngườ i thì ngã vật xuống b ờ đất cạnh nhà và thi ếp đi. Tôi ngủ bao lâu, không bi ết, lúc mở mắt ra thấy xung quanh có các bà ph ụ nữ lớn tuổi đang tíu tít cạ nh tôi: họ không hiểu tôi ở đ}u ra, sao lại n ằm đ}y. Hỏi han tôi vài câu, họ đ~ biết s ự th ể và mang lại cho tôi b|t nướ c thuốc gì đấy bảo u ống. Ôi, kh ủng khiếp, thuốc gì không bi ết mà khó nuốt thế! Đến t ận bây giờ, qua bao nhi ều năm tôi vẫn th ấy ghê trong mồm. Nhưng đến t ối, tôi vẫn phải uống thứ nước đó, rồi được ăn cháo và uống một b|t nước chè. Tối đến, chủ nhà t ốt bụng cho ngủ theo “kiểu địa chủ” trong kho cỏ khô. Sáng sớm bà cụ chủ nhà lại mang đến cho b|t nướ c thuốc, ch|o v{ nước chè. Nước chè được pha bằng các loại c ỏ gi đấy, u ống thật d ễ ch ịu. Ăn uống xong tôi c ảm ơn c|c cụ già t ốt bụng và lại lên đường như đ~ định. Tôi c ứ tiếc mãi sao mình không còn nh ớ tên làng và tên nh ững người dân t ốt bụng ấy. Lần n{y tôi đi thấy v ất v ả hơn lần trước nhiều, có c ảm gi|c l{ cơ thể đ~ ho{n to{n bị suy yếu.
Đến làng Rêu Dưới thì trời còn s|ng, tôi không d|m đi qua l{ng vì ở đó ai cũng biết tôi. Đ{nh ngồi l ại, đốt l ửa, chờ t ối. Muỗi t ừng đ{n xông đến nhàu nhàu. L ấy cành cây dập, xua chúng vào khói v ẫn thế. Cuối cùng trời t ối hẳn, tôi mới lại bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà gỗ của chúng tôi, mà t ừng vết rạn trên t ấm vàn sàn hay trên thân cây g ỗ tường t ừ l}u tôi đ~ từng quen thuộc. Mẹ tôi cho tôi ăn, nhưng b{ chẳng ngơi lấ y một phút, hết hỏi về Nhura, Gasa, l ại đến Vichtor nghèo túng. Cu ối cùng tôi leo lên trên nh{ nơi ngủ vào mùa hè có căng màn chống muỗi cắn. Các bạn cùng lứa anh em trai xúm quanh tôi, chúng tôi trò chuyện đến qu| đêm.
Thế là chuyến đi đ}u tiên củ a tôi, chuy ến đi đầy gian nan vất v ả, chuyến đi không còn ấu trĩ nữa đ~ kết thúc… Bao nhiêu c}y số tôi đ~ đi qua nhằ m mục đích gì? Tôi nghĩ c}u trả lời đang ở phía trước. Tôi tiếp t ục đi học ở trường Vôrônhikhin. Tôi b ắt đầu nghĩ lại r ằng, chuyến đi đầu tiên về quê hương của tôi không được cân nhắc kỹ lưỡng và thực hiện hơi sớm. Đ|ng lẽ phải đợi đến khi đủ tuổi cấp chứng minh thư theo như quy định của luật pháp. Nhưng trong tôi lập t ức xuất hiện câu hỏi: “Ai sẽ cấp chứng minh thư cho mình?” Làm thế n{o để có ch ứng minh thư, đó l{ c}u hỏi thường xuyên tôi nghĩ đế n và lo lắng. Và rồi ý tưởng trở v ề quê lần n ữa l ại xu ất hi ện chín muồi trong tôi. Lần này về mang theo giấy chứng nhận, x|c định được quyền cấp chứng minh thư.
Nhưng l{m thế n{o để có giấy ch ứng nhận được? Vì giấy đó có mẫu s ẵn và không phải do Xô Viết xã mà do Ủy ban khu ký… Vậy lấy chúng ở đ}u? Đó l{ ý tưởng không thể thực hiện được, nhưng nó vẫn đeo b|m v{o c|i đầ u nhỏ bé, khốn khó của tôi. Thường thường b ắt đầu vi ệc gì tôi hay đem ra thảo lu ận với bạn bè. Nhưng việc này thì lạy Chúa, tôi đ}u d|m nói vớ i ai. Chỉ một mình, mình bi ết. Tôi như sống biệt lập. Tâm trạng lo lắng của tôi, m ẹ tôi biết, liền tra hỏi xem có vi ệc gì xảy ra với tôi? Người gặng hỏi. nhưng tôi chỉ trả lời gióng một: Đến tuổi nó phải thế! Mẹ tôi bắt đầu giụi mắt: Tuổi tác gì, hở ông ranh con! Tôi tìm c|ch nói đùa vớ i mẹ tôi: “Thế, có lẽ mẹ coi con là trẻ con đến già chắc?” Nhưng tôi không thể đ|nh lừa tr|i tim người mẹ được. Tôi ngày càng xa lánh m ọi người. Mẹ tôi biết tôi l{ đứa khéo tay. Nh ững vật dụng trong nhà do tôi t ự l{m như b|t đĩa rất khó kiếm, có tiền cũng không mua được, mẹ tôi cứ khen t ấm t ắc, mà quả thật trông rất đẹp. Dùng làm quà t ặng bạn bè hay hàng xóm láng gi ềng đều được cả, ai cũng thích. Nhưng lần này thì mẹ tôi thấy trong túi áo tôi có lo ại vật liệu hoàn toàn mới lạ, không phải đ| v{ cũng không phải gỗ, chả hiểu là cái gì?
Đ}y chính là bí mật của tôi. Trong nhiều tháng liên tôi l ặng l ẽ thu thập c|c bì thư từ kh ắp nơi gửi v ề làng Rêu Dưới chúng tôi và tôi tìm cách th ử tái t ạo lại các con dấu in trên bì thư. Trên trầ n nhà tôi t ừ l}u đ~ có một xưởng thực sự, trên đó tôi bố trí các ch ỗ gi ấu d ụng c ụ, vật liệu, đồ đạc, nơi n{o ra nơi ấy, m{ để nh ớ được h ết thì là cả m ột v ấn đề. Và không m ột ai có thể biết được những thử nghiệm bạo gan tôi l{m trên đó. Tôi l{m thử h{ng trăm lần! Tất c ả các lần đó chưa có kết quả tôi mong mu ốn. Thất b ại không ngăn tôi được, mà chỉ thôi thúc tôi, gi ục tôi tiếp t ục th ử l ần n ữa. C ứ thế, ch ậm chạp t ừng bước m ột
tôi tiến dần đến mục đích đề ra. Th ế rồi trên một loại vật liệu, tôi đ~ đạt được hình con dấu gần giống nguyên bản. Điều đó tạ o cho tôi ni ềm tin, vì tôi đang đi đúng được. Từ ngày hôm ấy, tôi lại càng hồ hởi tiếp t ục công việc một c|ch kiên trì hơn. Đ}y l{ một việc làm thực sự nghiêm túc, ch ứ không phải trò chơi tiêu khiể n.
Đến lúc con dấu đ~ ho{n to{n giống nguyên bản thì lại phải lo việc kh|c. Để đưa công việc đến đích phải có người tin cậy. Anh Gavơri Bônđarencô hơn tôi hai tuổ i, người quen thân của tôi, làm kế to|n trưởng. Anh vẫn thường mời tôi đến văn phòng để giúp việc cho anh mỗi khi cần, tôi sẵn lòng giúp anh. Nhưng lầ n này thì tôi t ự đến và nhờ anh xin cho t ờ giấy, mẫu in sẵn có dấu của ủy ban khu. Lúc đầu anh t ỏ ra ngạc nhiên, nhưng sau đó vẫ n bảo: “Được, để anh thử hỏi xem”. Rồi một hôm, anh mang đến cho tôi t ờ giấy giữ rất cẩn thận v{ b|o trước: phải trả lại ngay đấy! Tôi trả lời: Ừ, thì t ất nhiên là trả lại rồi, nhưng xin anh cho v{i tờ giấy trắng. Thế là anh cho ngay t ờ giấy. Giấu kín giấy t ờ dưới áo, tôi quay tr ở lại xưởng kín của mình. Trong nhiều ngày, tôi tiến hành làm gi ả ch ữ in sẵn và dấu c ủa cơ quan quyề n lực, kết quả đạt được rất khá. Tôi mang t ờ giấy mẫu có chữ in sẵn cho Gavơri xem, anh không tin l{ tôi l{m được: “N{y, nói thật đi cậu kiếm đ}u được giấy mẫu này thế?” Giờ thì phải nghĩ c|ch h{nh độ ng tiếp tiếp theo. Chúng tôi bi ết có thể dùng các giấy này về quê để xin chứng minh thư. Rồi sau đó sẽ tính tiếp việc xin đi l{m ở đ}u đó. Cốt là có chứng minh thư! Mơ ước, mơ ướ c ấy l{m sao để thực hiện? Chúng tôi tìm cách kiếm ti ền b ằng chính các gi ấy t ờ n{y, vì được tr ở về quê hương l{ ước mơ ch|y bỏng của mỗi người đi đ{y. Chúng tôi quyết định đến một làng ở đó không ai biết chúng tôi đề nghị phương |n được t ự do. Chúng tôi đ~ nghĩ nộ i dung viết trong giấy ch ứng nhận. K ết quả đạt yêu cầu. Khi nêu phương |n vớ i một v{i người nông dân thì họ sợ b ị l ừa. Chúng tôi liên nhập vai v{ nói: “C|c ông không muốn được t ự do – thì thôi!” Nói rồi, chúng đi, ngoảnh lại thấy h ọ đ~ gần đuổi k ịp. “Hơi đắt – họ nói – Nhưng thôi c|c anh h~y viết đi”. Chữ Gavơri rất đẹp, anh điề n vào mẫu thật tài nghệ đến nỗi họ phải thốt lên “C|c cậu cừ thật, c ừ thật đấy”. Góp được một ít tiền rồi, chúng tôi t ự làm giấy cho mình và chuẩn bị lên đường. Bố mẹ tôi lần n{y không có ý định thuyết phục tôi ở lại nữa, vi th ấy chúng tôi quyết t}m ra đi. Nhưng b{ mẹ nào chả thế, bà cứ bảo tôi: “Misa, lần đầ u con khổ sở đến th ế vẫn chưa đủ à, mà lại mu ốn lặp lại m ột l ần nữa?”. Tôi trả lời: “Mẹ ơi, lần này
con đi để được t ự do, mẹ đừng khóc, đừng buồn”. Mẹ tôi vẫn khóc: “Mẹ bi ết th ế nào là t ự do rồi!” Sáng sớm tinh mơ hôm ấy, khăn gói quả mướp trên vai, chúng tôi th ận trọng đi khỏi làng theo đường vòng. Bên c ạnh con đường chúng tôi đi l{ nghĩa địa, nơi mấ y năm trước bố tôi được chôn ở đ}y. Tôi nói giọng buồn rầu: “Gavơri, ta ghé v{o đ}y tí đ~”. Anh trả l ời: “Nhất định r ồi, mình nhớ rõ ông c ụ l ắm”. Chúng tôi phải đi một lúc l}u trên nghĩa địa mọc đầy cỏ dại mới tìm được cây thánh giá g ỗ bạch dương, còn giữ được dòng chữ ghi tên người. Tôi đứ ng lặng một lúc, rồi nói qua nước mắt: “Bố ơi, hãy tha thứ cho con. Con phải tìm cuộc sống khác. Bố h~y chúc con lên đường may mắn, b ố ơi!” Ra đến đường chúng tôi đi trong im lặ ng. Vả lại bi ết nói gì vào gi ờ phút này? Bất ngờ một con thỏ lao ra t ừ bụi ây, phá tan sự im lặng của chúng tôi. Nó ch ạy nhảy thản nhiên trên đườ ng, khoe chiếc đuôi trắng chưa thay lông về phía chúng tôi, như cố ý diễu cợt, coi thường hai chúng tôi đang đeo súng săn hẳn hoi trên vai đi sau nó. Cảnh tượng ngộ nghĩnh n{y l{m cho chúng tôi vui hẳ n lên. Chúng tôi th ật thích thú được ngắm nhìn chú th ỏ dũng cảm này ở phía trước mình. Nhưng đến chỗ ngoặt gấp của con đường vùng đầm lầy thì bỗng nhiên chú th ỏ biến mất. Nó chạy đi đ}u nhỉ? Đi bộ trăm mét nữa thì chúng tôi phát hi ện ra dấu chân cáo. Th ảo nào mà nó biến m ất! Chúng tôi đi v{ b{n luậ n v ới nhau: Lo{i thú có t{i đ|nh hơi tuyệ t v ời th ật! Nếu không, thì ch ắc chắn là chết rồi. Con người m{ có được cái linh c ảm ấy nhỉ?… M{ chính chú thỏ vừa r ồi chẳng đ~ nêu cho chúng tôi b{i học hay về sự c ẩn trọng đó l{ gì. Chúng tôi cũng sẽ nghĩ c|ch bảo vệ mình. Vì “cả chúa Trời cũng bảo vệ người biết giữ mình” như lời m ẹ tôi dặn tôi trước lúc tôi đi. Đi được độ vài cây số sau khu rừng cây nỏ đầu tiên, tôi thấy làn khói mỏng trên một ống khói v{ sau l{ ngôi nh{ đầu tiên trên đường chúng tôi đi… Qua l{ng, chúng tôi giả bộ: tôi đóng vai người bị bắt đi trước, còn Gavơri cao lớn đeo súng đi sau, như l{ người ta giải t ội phạm.
Đi khỏi làng chúng tôi t ạt vào trong bụi rậm cười đùa đến chảy cả nước mắt. Chúng tôi kêu nh ỏ: “Qua rồi, qua r ồi!” Th|o túi trên vai xuố ng lấy khoai t}y nướng còn ấm, cải bắp dưa chuột muối, rồi bánh mỳ nướng đặc biệt không cho thêm rau muối. Mẹ tôi biết tôi thích b|nh xèo, người đ~ nướ ng nhiều hơn, mỗi cái gấp làm bốn để đầy có ngọn giỏ con t ết bằng vỏ bạch dương. Đ}y l{ c|i giỏ đẹp nhất cuối cùng mà tôi biết. Cái giỏ cuối cùng của tôi… Ăn uống nghỉ ngơi xong, người đ~ đỡ mệt, chúng tôi lại rảo bước tiếp trên con đường gian nan vất v ả mà chỉ có hai chúng tôi bi ết với nhau. Lúc ấy chúng tôi đ~ vui vẻ hơn! Niềm vui này quả thật không nhiều: Vì ở mỗi điểm d}n cư n{o chúng tôi đi qua cũng có thể b ị bắt. Khi đi chúng tôi vạ ch ra một kế hoạch thế này: ít nhất là hai ba ng{y đầu không một ai ở làng, ở nông trường được biết chúng tôi ra đi, mọi người trong nh{ được dặn trước l{ không đượ c nói vói ai m ột lời. Chúng tôi đ~ mua được
khẩu súng săn cũ với giá rẻ để đóng vai giải người bị bắt đưa về l{ng n{o đó phía trước. Thi thoảng gặp người đi ngược chiều, nhất là phụ nữ, cứ la toáng lên: Th ằng ấy tr ẻ thế m{ đ~ sinh sự, chả hiểu ra làm sao cả, lạ thế? Chính vì còn tr ẻ nên chúng tôi r ất thích thú cái trò di ễu h{nh n{y. Nhưng khi đi qua một ủy ban quân quản thì có mấy người cưỡi ngựa, đang thảo luận sôi nổi về việc gì đó, nhìn thấy chúng tôi. M ột người trong bọn họ gọi to; Dẫn thằng ăn cướp lại đ}y! Chúng tôi đi nhanh. Khi đế n gần khu rừng rậm, nơi con đường chúng tôi sẽ đi qua, thì nghe th ấy ti ếng hô to đằng sau: Hãy gi ữ chúng nó l ại, kiểm tra xem chúng là ai! Bọn người cưỡi ngựa phi thẳng về phía sau chúng tôi, nhưng chúng tôi đ~ kịp chui vào khu r ừng rậm rịt: biến cho nhanh, cho xa! Nhưng vẫ n còn nghe th ấy tiếng chó nhà sủa và tiếng chửi xa xa; “Đồ súc sinh – Nó lừa ta”. Chúng tôi lần trong rừng đến đêm khuya thì lại lần ra đường cái và l ạy Trời, co giò mà chạy!
Ng{y hôm sau để tránh tai họa chúng tôi quyết định sẽ bỏ súng. Khi đi qua chiế c cầu b ắc qua con sông nhỏ chảy xi ết, chúng tôi ném xuống giữa sông cái vật đ~ từng cứu giúp chúng tôi nhi ều lần, nhưng chỉ thiếu chút nữa cũng đ~ hại chúng tôi. Đến ngay thứ năm thì chúng tôi đ~ đến được l{ng trước kia gia đình Gavơri đ~ ở . Họ hàng ôm lấy anh mà khóc lóc, k ể lể: “Ôi! Gavori, ch|u lớn quá rồi! Cháu không nói thì chả biết ch|u l{ ai!” Buổi t ối, thôi thì không thi ếu gì các loại câu h ỏi: “Sống ở đấy thế nào? Ai còn ai mất? Thằng em trai thế nào, nó vẫn còn bé lắm m{.”
Gavơri l{ ngươi kể chuyện hay, anh k ể chi tiết đủ chuyện, v{ tôi đ~ bị cu ốn hút và câu chuyện của một gia đình nữa bị đi đ{y… S|ng sớm, ăn s|ng xong Gavơri đế n công an xin cấp chứng minh thư. Còn tôi thì chẳng biết trốn đi đ}u. Trong lòng cứ lo ngay ng|y!… Chri sợ ngay lúc n{y Gavơri xuất hiện, và nói t ừ ngưỡng cửa: Chúng mình đ~ bị lộ!
Nhưng điều đó đ~ không xảy ra. Cảnh cửa bỗng bật mở, Gavơri xồng x ộc bước vào nh{, tay đập bồm bộp vào ngực, như reo lên: “Ng{y mai trong túi n{y sẽ có chứng minh thư!” Mắt tôi bỗng cay xè – t ự nhiên nước mắt chảy ròng ròng vì qu| sung sướ ng. Nhưng ngay t ức thời, như có dòng nướ c lạnh giá tràn qua tim mang theo câu h ỏi đầy lo lắng: Tại sao lại là ngày mai mà không ph ải hôm nay?
Nếu bỗng nhiên l{ để kiểm tra… Một đêm mất ngủ, m ệt mỏi, căng thẳng: sớm mai điều gì sẽ xảy ra. Tôi nh ẩm tính c|c phương |n trong đầu: Nếu xảy ra điều gì thì phải làm thế nào, phải nói gì, giải thích mọi việc như thế nào?
Nhưng không cần điều này. Chẳng bao l}u Gavơri đ~ có chứng minh thư tạ m th ời trong túi. Chúng tôi chu ẩn bị về quê tôi. Ở đó người ta sẽ nói gì? Chúng tôi vượ t quãng đường này thật nhanh chóng và tôi, gi ống như Gavơri, sau một ng{y đ~ có giấy chứng minh thư tạm thời. Ở l{ng Gavơri sống, do một s ự ng ẫu nhiên kỳ di ệu n{o đó, anh có đượ c khẩu súng lục “braoning”, chúng tôi mang theo nó về làng, khẩu súng nằm dưới đ|y vali tôi. Ở l{ng Curia chúng tôi được thu xếp việc là ở trạm máy kéo – Gavơri l{m kế toán còn tôi làm nhân viên tính toán, ch ấm công. Có người đ|nh hơi biế t tôi có kh ẩu súng, và tôi đ|nh phải đem giấ u ở nhà chị Nhura… Đ~ nhiều lần tôi định kể về những ng{y đầu đời, những ngày tuổi trẻ này của tôi, nhưng b{n tay lại không muốn viết. Vào thời c ởi mở hiện nay tôi đ~ có thể nói ra cái phần cái bí mật n{y trong đời tôi chưa? Tất nhiên điề u này sẽ được ph ản ánh trong quan hệ với các cấp chính quyền. Vì nếu khi xưa mà chính quy ền biết được những điều “ch}n th{nh cởi mở” của tôi thì, đứng trên quan điểm chính trị tư tưởng mà xét chắc tôi sẽ không được như ng{y nay. Chẳng ai cho tôi làm vi ệc trong một lĩnh vực bí mật, lĩnh vực vũ khí qu}n sự như thế. Trong sự việc này, t ất nhiên, có điều gì đó để mà suy ngẫm v{ cũng có điều gì đó để mà nở nụ cười buồn. Xung quanh Kalasnhic ốp bao bọc một bức màn bí mật, không thể xuyên qua nổi. Và chính ông Kalasnhic ốp, người có đầy mình bí mật quốc gia được giữ gìn chắc chắn ấy, hóa ra l ại giấu bí mật riêng của mình ngần ấy năm trời mà không một ai hay biết kể cả bí thư đảng ủy, đại diện KGB (Ủy ban an ninh quốc gia), bộ trưởng quốc phòng, cục tình b|o… v{ thậm chí cả dì Masa suốt ngày, t ừ s|ng đến t ối ngồi trên chiếc ghế trước cầu thang với b ạn bè, c|i gì cũng biết, ai cũng biết nhưng lạ i không biết c|i điều bí mật ấy.
Ta cũng nhớ lại nh ững câu chuyện c ổ tích Nga: giữa “biển” có đảo, trên đả o có cây trên cây có t ổ chim, trong t ổ chim có chim mẹ, trong chim mẹ có quả trứng, và cuối cùng trong quả tr ứng có c|i kim, đó l{ c}u đố lớn nhất… Vậy thì xét t ừ mặt khác, câu chuyện giấu kín của tôi nó là m ột vi ệc thường tình! Lạy tr ời th ế là m ọi chuyện đ~ ổn thỏa. Và c ầu mong bí mật của con người không ai và không bao gi ờ có thể bị tước mất và dò la xét hỏi.
Còn tôi ngày ấy đ~ giấu kín bí mật riêng, theo như tôi nghĩ, l{ vì công việ c. N ếu ai biết được những chi tiết này của đời tôi, thì ch ắc chắn tôi đ~ bị vất ra ngoài l ề đường, không còn được tham gia vào vi ệc chế t ạo các t ổ h ợp quốc phòng. Có nhi ều k ẻ suốt đời đ~ quỵ lụy trước th ế lực m ạnh m ột th ời, nay lại đập vào mặt h ọ, có những k ẻ đ~ t ừng bợ đỡ luồn cúi bọn nhà giàu có c ủa… những bọn ấy đ~ chẳng bỏ lỡ cơ hội để mà “cắn” thật đau người nào dám nói s ự thật về mình… Chính sự thật của bọn chúng còn khủng khiếp hơn sự thật về bản thân tôi nhiều, nhưng c|i nguy hiểm hơn cả là chúng lại cứ bôi nhọ người khác. Không hiểu bạn đọc có ngạc nhiên không, khi đọc những dòng tôi viết này: Tôi không nói là không m ột ai trong s ố những họ hàng gần gũi nhất của tôi, không ai trong số con cháu tôi bi ết những sự kiện trên khi tôi chưa viết ra trong cu ốn sách này. Cầu Trời, h~y để cho sự thật này, sẽ l{ điều cởi mở ch}n th{nh đối với những người thân thích c ủa tôi.
Trong “Hộp den” c}u chuyện về con đường đầy gian nan vất vả không tưởng tượng nổi m{ tôi đ~ trải qua hồi còn trẻ, không chỉ hiểu ở nghĩa đen. Hiểu theo nghĩa bóng, có lẽ sẽ khó hơn nhiều và nguy hiểm hơn nhiề u. Nhưng khi tôi khóc vì xấu hổ, vì giận dỗi, khi tôi đứng giơ tay xin ăn dướ i cửa sổ nha khác, có l ẽ lúc ấy tôi không xin mẩu b|nh mì… Tôi đ~ được nhiều: tôi xin cảm t ạ số phận về những điều đó. Và tôi luôn luôn thi ết tha yêu Tổ quốc mình, cho dù ph ải trả qua biết bao cay đắng, phức t ạp. Những năm trước đ}y, tôi luôn đượ c nh ắc nh ở điều n{y: Đừng nói tôi, mà hãy nói Chúng Tôi. Tôi không t ự mãn và tôi s ẽ t ổng kết những năm th|ng đ~ qua bằ ng câu nói n ổi tiếng: “Tôi đ~ l{m những gì có thể l{m. Người nào có thể, thì hãy làm t ốt hơn”
SAU “PHÁT SÚNG TRONG ĐÊM TỐI” Bạn h~y tưởng tượng rằng câu chuyện đang xảy ra t ừ năm 1988 xa xôi ấy. Ngườ i nh{ tôi nói: Ông có thư. Tôi cầ m trong tay chiếc phong bì và sững sờ ngạc nhiên. Tôi l{ người được b ảo vệ bí m ật đến nỗi, những tin t ức t ừ người hàng xóm ngày ngày có thể va m ặt nhau hai lượt, đầu tiên đượ c gửi về M|txcơva, cho Xô Viết t ối cao, r ồi sau đó qua hệ thống liên lạc đặc biệt mới gửi trở lại Igiepxk cho tôi. Th ế mà bỗng dưng lại có chiếc phong bì t ừ nước ngoài màu xanh, vi ền mép đỏ t ừ H ợp chủng quốc Hoa Kỳ gửi t ới! Vị thế của người được bảo vệ, nhắc tôi một điều: Phải báo cho KGB bi ết. Có cái hay và dễ cho tôi là: Nhicôlai Ivanôvich Nhever ốp chủ t ịch ủy ban an ninh quốc gia t ỉnh là bạn cũ của tôi. Tôi gọi điện trước, đế n gặp v{ đưa bức thư ra. Ông nhìn tôi đầy ý nghĩa đến nỗi tôi, không cố ý, vung hai tay phân tr ần: - Ông nói gì vậy?… Tôi viết thư sang Mỹ để làm gì? - V ậy thì, – Nhicôlai Ivanôvích nói ý t ứ – Ảnh, tiểu s ử t ự đến với ông ta. M ẫu súng đang thử có lẽ ông ta chưa quyết định xin, chắc sau này mới hỏi nhỉ? Ông bạn tôi rút thu ốc hút v{ đăm chiêu… - Ông ta muốn viết sách? – Như l{ tự nói với mình, Nhicôlai Ivanôvích ti ếp t ục trâm ngâm. – Nh{ văn {?
Đừng v ội nghĩ rằng b ạn tôi thuộc d ạng “c}y đa c}y đề” m{ người ta thường mô t ả về các nhân viên an ninh c ủa ta, ông l{ người lập dị. Tiếp xúc với ông ta thấy thích thú. Thế còn những gì mà ông c ố t ạo ra cho h ợp với chính hình tượng m{ ông đạ i diện, thì đấy là do cu ộc sống của chúng tôi đôi khi không chỉ phức t ạp mà còn cay đắng, buộc mỗi con người có trí thông minh phải tìm ra cho riêng mình phương pháp t ự cứu lấy bản thân. Tôi còn nhớ một lần, chúng tôi ngồi trong phòng làm vi ệc của ông, tôi nh ắc lại rằng, người ta không cho tôi ra nướ c ngoài. - Tội nghiệp nhỉ, thế ông chưa ra khỏi biên giới bao giờ à? – Ông ta hỏi tôi giọng xoi mói và c ố ý cau mặt lại, rút t ừ t ủ ra một cặp giấy. – Có chứng cớ ngược lại điều đó… Đ}y l{ thông b|o của c|c đồ ng nghiệp, láng giềng gửi cho tôi. Trong khi đi săn ông đ~ vượt biên giới hành chính c ủa Utmurin vào sâu lãnh th ổ Tataria bẩy mươi
kilômét… Có không? Rồi đi săn tiế p sâu vào lãnh th ổ Baskiria m ột trăm kilômét… Thế mà ông còn phàn nàn! Câu chuyện lần ấy kết thúc bằng m ột lời đề nghị thân ái: Ông hãy sang h ỏi ý kiến t ỉnh ủy. Tôi “hỏi ý kiến” bên đó kh| l}u, cuối cùng bí thư thứ nhất nói: “Thế anh có biết rằng, phải nói chuy ện với ủy ban an ninh quốc gia không?”. Tôi trả lời rằng tôi đ~ ở bên đó, ông bí thư tỉ nh ủy thở d{i: “Thế thì, có thể, phải chờ ít nữa?”
C|i “tí nữa” kéo d{i đế n mức một năm sau từ bộ Ngoại giao gọi điện về t ỉnh ủy hỏi: Nhà thiết kế Kalasnhicốp đ~ nhận được bức thư của nhà nghiên cứu lịch sử vũ khí Izel t ừ Mỹ gửi sang chưa?… Nếu nhận được rồi – sao đến nay vẫn im lặng? “Giống như ph|t súng bắn v{o đêm tố i, tôi viết b ức thư gửi Kalasnhicốp v ới l ời đề nghị cho biết thông tin về con đường sự nghiệp, công danh của ông. Đúng 13 tháng sau, ông mới trả lời bức thư của tôi kèm theo bức ảnh có bút tích”. Đ}y l{ lời trong cuốn s|ch “Lịch sử khẩu AK-47” của tác giả Etvar Clintơn Izel. Gần 15 th|ng sau, v{o th|ng 8 năm 1986 tôi nhận đượ c cuốn s|ch in đẹ p, minh họa lộng lẫy, lời đề t ựa chân thành của tác giả. Và t ừ đấy, những gì liên quan đế n cuốn s|ch, liên quan đến sự làm quen riêng với tiến sĩ Izel đ~ mở ra m ột th ời kỳ mới trong đời tôi. M ột thời kỳ mới.
Sau đó tôi được vinh dự vi ết l ời mở đầu cho lần xuất b ản th ứ hai của cu ốn sách ở Mỹ và tôi sẵn sàng viết nữa, viết n ữa: “Căn cứ và các sự ki ện đ~ xảy ra và phát tri ển kế tiếp sau đó, có thể khẳng định rằng “ph|t súng trong đêm tối” l{ mũi tên bay trúng đích. Đọc c|c chương s|ch, tôi vô cùng ngạ c nhiên bởi sự hi ểu bi ết k ỳ diệu của tác giả v ề vũ khí bộ binh của đế ch ế Nga t ừ năm 1917. Ông đ~ soi s|ng mộ t cách chi tiết quá trình cải t ổ nền công nghiệp quân sự trong và sau cuộc nội chiến. Ông kể một cách t ỉ mỉ về những nhà chế t ạo vũ khí bộ binh ở Nga, và về các cuộc thi đua, cạnh tranh giữa các nhà thiết k ế đ~ diễn ra như thế n{o v{ trong c|c điều ki ện gì. Ta sẽ thực sự ngạc nhiên bởi sự chính xác c ủa tư liệu nêu ra như: Ng{y th|ng vũ khí được trang bị cho qu}n đội; số lượng mà ngành công nghiệp sản xuất ra bao nhiêu, rồi tính năng chi tiế t trong chiến đấu. Trong kho tàng sách quân s ự trong nước, khó m{ tìm được cuốn sách nào ch ỉ rõ ai v{ khi n{o l~nh đạo các vấn đề phát triển kỹ thuật quân sự, th ế mà trong cuốn sách của Izel lại có t ất c ả nh ững điều này. Các b ạn hãy cầm lấy cuốn s|ch, h~y đọc nó! Tôi tin rằng nếu cuốn s|ch n{y được in bằng tiếng Nga thì sẽ là nguồn cung cấp thông tin lớn cho bạn đọc. Tác giả đặt tên cuốn s|ch l{ “Lịch sử khẩu tiểu liên AK-47” nhưng công trình n{y bao gồm cả sự phát triển, hình th{nh vũ khí bộ binh của nước Nga kể t ừ khi kh ởi thủy, cho đến nh ững năm gần đ}y. Đ}y l{ cuố n t ừ điển Bách khoa v ề vũ khí bộ binh Nga t ừ năm 1812 cho đến nay.
Sau khi cho ra đời cuốn sách này, tiến sĩ Izel đề nghị tôi tham gia vào vi ệc xây dựng một bộ phim video về các nhà thi ết kế vũ khí b ộ binh của thế kỷ XX. Kể t ừ đó chúng tôi thường xuyên trao đổi thư từ thăm hỏi công việc. th|ng 7 năm 1989 chúng tôi gặp nhau lần đầu ở M|txcơva. Tiến sĩ đi cùng với m ột t ổ quay phim. Đến nơi ông bắt tay ngay vào vi ệc thực hiện chương trình đ~ đị nh. Bốn ngày cùng làm việc thân ái với ông đ~ in đậm mãi trong ký ức tôi. Sau đó một năm tôi vượt đại dương bay sang Mỹ để tiếp t ục công việc đang l{m dở ở M|txcơva. Ở s}n bay tôi đ~ nhậ n ra ngay những khuôn mặt thân quen c ủa những người ra đón v{ nụ cười hiền hậu của Izel giờ đ~ l{ bạn tôi. Chúng tôi ôm l ấy nhau như những người b ạn cũ. Izel giới thiệu tôi với Viêcinhia người v ợ yêu quý c ủa ông, người giúp việc trung thành trong sự nghiệp lao động không mấy nhẹ nhàng của một nhà sử học quân sự như ông. Tôi không bao giờ quên được những ngày ở trường đại học Xuitxônốp, được gặp gỡ với nhiều chuyên gia và nh ững người yêu thích vũ khí bộ binh. Vào một ngày ở Oasinhtơn, tôi nóng lòng chờ gặp người thiết kế khẩu súng trường M-16 và các lo ại vũ khí bộ binh khác. Và tôi đ~ gặp Iutzin Xtuner, người mà tôi biết t ừ lâu trong sách. Chúng tôi g ặp nhau ở khách sạn “Oasinhtơn” như l{ những ngườ i bạn cũ th}n thiết. Tôi không thể ngờ được rằng tôi có ng{y hôm đó. Thế m{ nó đ~ đến! Tôi muốn nói lời c ảm ơn gửi đến nh ững người đ~ tổ ch ức cho tôi t ới thăm những nh{ m|y vũ khí v{ c|c bảo t{ng vũ khí, trong thờ i gian tôi là khách c ủa nhà thiết kế Mỹ Bil Riuger. Trong th ời gian này, tôi g ặp lại tiến sĩ Izel, ông giới thiệu với tôi về những kế hoạch sáng t ạo tiếp theo của ông. Tôi vô cùng ng ạc nhiên v{ sung sướng nhận th ấy rằng, ông đ~ muốn làm thật nhiều để cho lịch s ử vũ khí thế gi ới được đưa ra với độ chu ẩn x|c cao v{ để cho các thế hệ ch ế t ạo vũ khí mới có thể tiếp thu được. Không phải ai khác, mà chính ông có th ể làm việc này. Tôi bi ết ông ốm, yếu, nhưng tôi tin rằng ông sẽ mạnh hơn những căn bệnh đ~ đổ lên vai ông. Tôi thật đau đớn trong lòng khi đượ c biết qua điện thoại rằng, ông – người chép tiểu s ử đời tôi, người b ạn tôi đ~ qua đời. Trong căn hộ tôi ở, còn lưu giữ nhi ều cu ốn sách của ông, v{ h{ng trăm bức ảnh ông, điều đó luôn gợ i cho tôi nhớ r ằng, ông vẫn còn tiếp t ục ở bên tôi. Có những người có bi ệt tài trong việc gây thiện cảm với người khác:theo tôi Izel, là một trong những người thuộc số đó… Một lần ông ấy viết trong thư riêng gửi tôi: “Với tư c|ch l{ một nhà lịch sử vũ khí bộ binh, tôi không xu nịnh và nói quá lên r ằng, ông đ~ có có ảnh hưở ng quyết định đến việc phát triển loại vũ khí n{y v{o cuố i thế kỷ XX. Tôi cho r ằng, trên thế gi ới không ai ph ủ định v ề điều này. Vì thế chúng tôi đ~
quan t}m đặc biệt đến hoạt động sáng t ạo của ông. Hoạt động n{y đ~ đóng một vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành m ột con người n ổi tiếng thế giới như ông. Cũng chính vì vậy, chúng tôi rất mong muốn được giới thiệu ông với mọi người t ừ những đặc điểm trong quá trình sáng t ạo, để hình thành nhà thiết kế, nh ững phong c|ch, phương ph|p, điều ki ện làm việc quyết định đến khuynh hướng tư duy v{ khả năng l{m việc m{ ông đ~ từng áp dụng. Sự quan tâm trên không ch ỉ có ý nghĩa đối với nh ững người làm khoa h ọc, mà nó còn có giá tr ị lớn về giáo dục, h ọc v ấn đối v ới thế hệ trẻ v{ thúc đẩy phát triển mối quan hệ hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân t ộc của hai nước chúng ta. Izel không chỉ chinh ph ục tôi mà có l ẽ ông còn chinh ph ục t ất c ả nhưng ai mà ông đ~ gặp ở nước Nga. Một l ần, ông ghé thăm khóa học “Xạ kích” ở trường b ắn ngoại ô M|txcơva, mọi người r ất ng ạc nhiên khi phát hi ện ra ông là một x ạ th ủ xu ất s ắc. Các sĩ quan đến bắt tay chúc m ừng ông, họ giơ ngón tay c|i cho nhau biể u hiện sự vui mừng thán phục. Có m ột khía cạnh n ữa trong hoạt động c ủa Izel làm tôi bị cuốn hút đó l{ sứ m ạng đặc biệt của ông. Một lần tôi bỗng nhớ ra là ông không chỉ là một nhà lịch sử… m{ ông còn giữ chức trưởng phòng lịch sử của các lực lượng vũ trang, người ph ụ trách bảo t ồn bộ sưu tập hỏa khí quốc gia, thuộc viện bảo tàng lịch sử qu}n đội quốc gia trực thuộc trường đại học Ximitxônốp Mỹ. Etvar Clintơn Izel còn l{ mộ t nhà triết học vũ khí… có thể như thế chăng? Tiếc rằng t ất cả những điều nói trên đều ở vào thời quá khứ! Tôi không nói v ề cuốn sách sâu sắc của ông, hoặc về những cuộc phỏng vấn trên truyền hình rất chính xác và thành th ạo trong thời gian quay phim – tôi có c ảm tưởng rằng chỉ cần một nụ cười thân ái của ông, đôi khi cũng nói lên đượ c nhiều điều hơn hẳn các bài nghiên c ứu tr{ng giang đại hải… Tầm bao quát trong sáng t ạo của Izel chính l{ điểm khác biệt của ông so với những cố gắng tìm hiểu, nắm vững những tài sản của nước Nga. Nh ững vấn đề n{y ngay trong nước, chúng ta nghiên c ứu còn dè dặt. Chúng tôi k ết bạn với nhau thật nồng thắm và sôi nổi như c|c cậu bé mới lớn. Tình bạn n{y đ~ cổ vũ tôi một cách lạ thường. Thậm chí tôi còn có ý định thế n{o tôi cũng sẽ học ti ếng Anh, đầu tiên để viết nhật ký, sau đó sẽ viết quyển sách không ch ỉ nói về vũ khí. Tóm lại tôi sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Tôi bắt đầu viết một cách thất thường những ghi chép ng ắn, lúc thì ở phòng làm việc trong nhà máy, lúc thì ở trên máy bay, trong t ầu hỏa, trong khách sạn ở M|txcơva, v{ ở nước ngo{i… Nhưng trước khi cho trình làng chúng, tôi mu ốn dẫn ra toàn bộ một cuộc phỏng vấn mà tôi cùng với Izel đ~ tiến hành cùng nhau khi ông ở thăm Nga. Cuộc phỏng vấn n{y đ~ đăng trong tờ “Sao đỏ”.
“Phóng viên; Thưa ng{i Izel, trong lời nói đầ u của cuốn s|ch “Lịch sử khẩu tiểu liên AK-47” có c}u: “Hơn mười năm nh{ sử học quân sự Etvar Clintơn đ~ tiến hành công việc do thám, thâm nh ập vào vỏ bọc bí mật bao quanh cuộc đời Kalasnhicốp”. Chuyến đến thăm lần nay có liên quan gì đế n nhiệm vụ cũ không? E.K.Izel: Có th ể nói r ằng, ông đ~ đo|n trúng. Vấn đề này xuất hiện một phần do tính tò mò đặc trưng củ a những người sinh ra ở phương t}y, khi có quan hệ với những người ho ạt động trong t ổ h ợp công nghiệp quân sự của Liên Xô đượ c bảo v ệ trong màn bí m ật. Còn một nguyên nhân nữa là, khi nghiên c ứu và giới thiệu l ịch s ử “Kalasnhicốp”, chúng tôi có điều ki ện biết rõ hơn rằ ng b ằng cách nào Liên Xô không phụ thuộc vào thiết kế và công nghiệp sản xuất của nước ngoài mà vẫn hoàn toàn chủ động được trong c|c lĩnh vực n{y. Nhưng có lẽ cái chính nh ất l{ để biết nhiều hơn nữa về một con người, người đ~ trở thành anh hùng c ủa nhân dân Xô Vi ết trong lĩnh vực kỹ thuật. M.T.Kalasnhicốp: Điều đó xét theo quan điểm lịch sử, còn những nhà thiết kế – đồng nghiệp của tôi có th ể nghĩ kh|c. Hơn nữa, sự hoàn thiện là không có gi ới hạn, nên trên thế giới sẽ t ồn t ại nhiều mẫu vũ khí xứng đ|ng.
E.K.Izel: Để khẳng định cho lời tôi nói trên, xin d ẫn ra những lời nhận định của nhiều nh{ vũ khí xuất sắc, trong đó có Xtônner v{ Galili -Blansnhicốp m{ ông đ~ biết, những người đ~ nghiên cứ u r ất k ỹ các hệ th ống vũ khí của Giônsơn, Khôlik “UZI” v{ của ông. Họ đ~ coi hệ th ống vũ khí của ông là t ốt nh ất th ế gi ới. Cả hai nh{ vũ khí nói trên gửi lời chào thân ái t ới ông! M.T.Kalasnhicốp: Xin cảm ơn. E.K.Izel: Xin nói thêm, ngoài công vi ệc thiết kế, ông và họ còn có một điểm chung nữa. M.T.Kalasnhicốp: Điểm chung nào nữa?
E.K.Izel: Hai người Xtônner v{ Galili cũng như ông, đ~ từng l{ ngườ i lính ngoài mặt trận c ủa th ế chi ến th ứ hai. Một người trong qu}n đội M ỹ, m ột người trong qu}n đội Anh.
Phóng viên: Đ}y l{ một sự ki ện thú vị. cu ộc đấu tranh chống ph|t xít đối với c ả ba nhà thiết kế Xtônner, Galili, Kalasnhic ốp là xuất ph|t điểm độc đ|o để họ vươn tới chế t ạo một loại vũ khí bộ binh hoàn toàn m ới, nhằm nhanh chóng chi ến thắng kẻ thù chung. E.K.Izel: Vâng, có l ẽ, sự kiện n{y đ~ đóng một vai trò không nhỏ trong số ph ận tiếp theo sau đó đối với h ọ. Tôi cho r ằng có một điều không kém ph ần thú vị đối với b ạn
đọc Xô Viết, đó l{ Xtuner cũng như Kalasnhicốp đều là những thiên tài bẩm sinh, họ không có học vấn chuyên ng{nh cũng như không có trình độ đại học. M.T.Kalasnhicốp: Vâng, cái gì không bi ết, là không biết. Chúng bôi bi ết về các hệ thống vũ khí m{ chúng tôi chế t ạo nhiều hơn l{ biế t về nhau.
E.K.Izel; Để bổ khuyết chỗ trống n{y đối với người Mỹ về mặt cuộc đời và hoạt động của ông, t ừ l}u tôi đ~ chờ cuộc gặp này với ông. Nhóm quay phim đi cùng tôi sẽ ghi hình cu ộc nói chuyện của chúng ta, và bộ phim sẽ trở thành một phần của chương trình phim khoa học – thời sự Xmitxônốp dành cho những nhà chế t ạo kỹ thuật hiện đại. Phóng viên: Nói một cách khác là, ông mu ốn vén toàn bộ bí mật che kín cu ộc đời Kalasnhicốp? E.K.Izel: Theo s ự đ|nh gi| của tôi như đ~ nói trong cuốn “Lị ch s ử AK- 47” thì sự ra đời c ủa kh ẩu tiểu liên Kalasnhic ốp trên trường quốc t ế là m ột trong những dấu hi ệu chứng t ỏ rằng, Liên Xô đ~ bướ c sang một kỷ nguyên kỹ thuật mới. Khẩu tiểu liên AK47 và những phương |n ứ ng dụng của nó là loại vũ khí bộ binh thông dụng nhất và nổi ti ếng nhất sau chiến tranh thế gi ới l ần th ứ hai. Sự th ực thì có một s ố chuyên gia phương T}y b|c bỏ ý kiến này, họ cho rằng, sự đ|nh gi| đó cũng xứng đ|ng vớ i cả khẩu súng trường M.16 được trang bị cho qu}n đội M ỹ. Riêng tôi không nghĩ thế . Và không phải chỉ có tôi yêu thích kh ẩu tiểu liên Kalasnhic ốp. Chúng ta nhìn th ấy nó trong c|c chương trình thời sự trên tivi, trong các phóng s ự ảnh t ừ Beirút, t ừ sa m ạc Iran, t ừ r ừng rậm En-Xanvađor v{ từ vùng núi Apganixtan. Tình hình đó buộc ngườ i Mỹ chúng tôi phải đặc biệt chú ý đến hoạt động sáng t ạo và cá nhân Mikhain Timôphêêvích Kalasnhic ốp. Tôi nhấn m ạnh thêm một điều nữa là, ngoài m ối quan tâm về khoa học và về con người, thì sự làm quen với c|c nh{ vũ khí xuất sắc của thời đại có một giá trị giáo dục lớn đối với thanh niên M ỹ. Vâng, vâng xin các v ị đừng ngạc nhiên. Chúng tôi là nh ững người biết đ|nh gi|, biế t khâm phục các thành t ựu cao cả của ngươi ph|c. Phóng viên: Nhân dịp này, tôi muốn nghe ngài giới thiệu về trường đại học Xmítxônốp. Vai trò c ủa nó là gì?
E.K.Izel: Trường đại học Ximítxônốp là một cơ quan nh{ nước của Mỹ, có nhiệm vụ thu thập, bảo quản và phổ biến các thành t ựu văn hóa, khoa học, k ỹ thuật của nền văn minh con người, đế n toàn thể nhân dân Mỹ, cũng như đến các vị kh|ch nước ngo{i đa chủng t ộc của chúng tôi. Viện có một mạng lưới rộng khắp các viện bảo tàng lớn nhất, các kho l ưu trữ, c|c xưởng, các trạm, các phòng thí nghiệm, các t ổ chức khao học và giáo dục. Tôi hy vọng trong thời gian t ới ông Kalasnhicốp sẽ có chuyến
thăm đ|p lại chúng tôi và tôi s ẽ có vinh d ự được đón tiếp và giới hiệu với ông những bộ sưu tập và các tài liệu mà ông quan tâm. M.T. Kalasnhic ốp: Xin cảm ơn tiến sĩ Izel về l ời m ời. Khi m{ chúng ta có điều ki ện gặp gỡ, tôi nghĩ rằng sẽ giúp chúng ta hi ểu và gần gũi nhau hơn. Về phần mình, tôi cũng muốn nh ấn m ạnh r ằng, tôi đ|nh gi| cao c|c th{nh tự u của các nhà thiết k ế Mỹ, đặc bi ệt l{ ng{y Garand, người đ~ chế t ạo ra khẩu súng trường t ự động có sơ đồ c ấu t ạo cơ cấu khá rãnh nòng và h ệ thống nạp đạn độc đ|o. Còn riêng về cuốn sách của ông, thưa tiến sĩ Izel, tôi phải thừa nhận r ằng, nó làm tôi rất ngạc nhiên. Tôi không ng ờ rằng quan điểm t ừ phía “bên kia” về quá trình phát triển của ng{nh vũ khí bộ binh chúng tôi trong th ời kỳ cách mạng, cũng như trong thời kỳ Xô Viết lại được đ|nh gi| kh|ch quan v{ s}u sắc đến thế. E.K.Izel: Làm việc n{y không đơn giả n chút nào. Việc thu thập t ừng mẩu tin một về lịch sử phát triển vũ khí ở Nga và các sự kiện trong đời tư củ a ông, quả thật giống như việc làm của m ột thám t ử. Nh ững thông tin viết v ề ông bằng tiếng Anh rất ít đ~ đ{nh, m{ cả các nguồn tư liệu Xô Viết cũng thế. M.T.Kalasnhicốp: Tôi nghĩ rằng không lâu n ữa, lỗ hổng này sẽ được lấp kín. Nhà xuất b ản quân sự B ộ Quốc phòng Liên Xô đang chuẩn b ị xu ất b ản cu ốn sách của tôi. Tôi sẽ kể về con đường tôi đ~ đi qua. Sau một qu~ng đường d{i đ~ trải qua, tôi đ~ thấy con đường ấy như t hế nào, và hiện này cách tôi nhìn nh ận, hiểu biết nó ra làm sao. E.K.Izel: Cuốn sách của ông? Đối với tôi đ}y l{ một bất ngờ thú vị. Có lẽ trong cuốn sách này ông sẽ tiết lộ ra Kalasnhic ốp, không chỉ là một nhà thiết kế đơn thuần mà còn là thầy của các nhà thiết kế. M.T.Kalasnhicốp: Trong điều ki ện hiện đại hóa, nhà thi ết kế vũ khí không thể làm việc đơn độc – thủ công. Trong các phòng thi ết kế có các t ập thể lớn làm việc bao gồm các nhà phân tích, các nhà công ngh ệ, các nhà kim loại và cả các xạ thủ nữa. Đương nhiên trong phòng thiết kế có cả những học sinh của tôi làm vi ệc cùng. Tôi muốn truyền đạt kinh nghiệm của mình về công việc thiết kế, chế t ạo các hệ thống vũ khí cho h ọ. V{ tôi cũng có một người con trai là k ỹ sư thiết k ế. E.K.Izel: À ra th ế? L ại thêm một Kalasnhicốp – chế t ạo vũ khí nữa? M.T.Kalasnhicốp: Vâng. Có l ẽ con sẽ hơn cha. E.K.Izel: Theo d ự báo của tôi, trên phương diệ n là nhà nghiên c ứu l ịch s ử và công nghệ chế t ạo vũ khí, tôi có thể nói chắc rằng nếu Liên Xô b ất ngờ có m ột phát minh lớn trong lĩnh vực vũ khí bộ binh, các h ệ thống vũ khí mới s ẽ thay thế các hệ thống
cũ thì c|c hệ th ống c ủa ông vẫn còn được sử dụng cho đến năm 2005. Tuy nhiên, tôi cho rằng ph|t minh đó ít có khả năng xảy ra, nên h ệ th ống vũ khí của Kalasnhicốp – bố sẽ còn được sử dụng l}u hơn. Nhưng, dù thế , tôi vẫn muốn chúc Kalasnhicốp – con đạt nhiều thắng lợi trong công việc thiết kế vũ khí. Phóng viên: Thưa tiến sĩ Izel, vậ y ngài cho rằng vũ khí bộ binh vẫn còn có tương lai, và nó s ẽ sống lâu nữa? E.K.Izel; Vũ khí bộ binh – là một trong những loại hình vũ khí tối thiểu cần được trang bị. Có lẽ nó sẽ biến mất sau cùng và nó sẽ sống l}u hơn so với các loại vũ khí khác. Ở M ỹ, chúng tôi đ~ bỏ ra một khoản chi phí lớn cho lính vực n{y, nhưng th{nh t ựu thì chưa nhiều. Hiện nay t rong c|c đơn vị bộ binh chúng tôi đang tiế n hành thử bốn loại mẫu mới. Nhưng tôi cho rằng đến năm 2000 vũ khí bộ binh của chúng tôi, vẫn chỉ tiến hành hiện đại hóa kh ẩu M.16”. Đ|nh gi| cuộc g ặp mặt của chúng tôi ở Nga, Rôbe Ađamx thư ký Viện Xmítxônốp, viết cho tôi th ế này: “… C|c th{nh viên của nhóm chúng tôi s ẽ không bao gi ờ quên chuyến đi Liên Xô v{ mối quan hệ bè bạn thân ái của đất nước ông. Các công vi ệc m{ chúng ta đ~ tiế n hành, phản ảnh một cách t ốt nhất những cố gắng của hai nước chúng ta, để đạt được một nên hòa bình và h ữu nghị bền vững”. Tôi phải mạnh dạn nói rằng, sau cu ộc gặp m ặt đầu tiên không quên ấy, giữa chúng tôi đ~ hình th{nh nên mối quan hệ tin cậy lẫn nhau. Chúng tôi bắt đầu nhận được những lời chúc mừng lẫn nhau v{ đặ t hy vọng vào cuộc gặp mới. Vào dịp sinh nhật lần thứ 70, tiến sĩ Izel tặng tôi một món quà kèm theo b ức thư ngắn: “Tôi xin gửi t ặng ông mẫu ti ểu liên M.16A2 lê M.9 m ới được trang bị cho quân đội. Nhân kỷ niệm v ề cu ộc g ặp m ặt có thể coi là lịch s ử v{o năm 1989. Tôi nghĩ rằ ng nó đem lại ít nhiều thú vị cho ông”. Vật kỷ niệm đúng l{ d{nh cho chúng tôi, nhữ ng nh{ l{m vũ khí! Tôi rấ t cảm ơn vì món qu{ v{ treo nó trong phòng l{m việc ở nhà của tôi trên chỗ dễ thấy nhất.
Đầu năm 1990, sự cộng tác chặt chẽ giữa hai bên đ~ đem lại kết quả. Ngày 30 th|ng 3 năm 1990 tôi chính thức đượ c Viện Xmitxonốp thông báo mời sang tham gia v{o chương trình phim t{i liệu t ừ ng{y 15 đến 23 th|ng 5. Trong thư, tiến sĩ Izel viế t: Chúng tôi mu ốn ti ếp t ục làm cuốn phim thời s ự v ề con đường công danh của ông và của ngài Xtuner. Xin ông hay báo cho bi ết, ông có thể sang Mỹ vào thời hạn trên được không. Tôi hy vọng rằng, chúng ta sẽ tiếp t ục một các có k ết quả dự kiến của chúng ta về các cuộc họp báo và ph ỏng vấn để quay video. Chúng tôi đ~ chuẩn bị cuộc thăm thú vị cho các bạn – những người bạn Xô Viết của chúng tôi.
Đọc chương trình cuộc thăm Mỹ s ắp t ới, tôi thực s ự ng ạc nhiên vì sự tính toán vô cùng chính x|c, cho đến t ừng phút một! Mỗi một biện pháp t ổ chức đều có người chịu trách nhiệm cụ th ể, trong đó có người phụ trách thật cao. Đại di ện cho chương trình “picnic” – người chịu trách nhiệm – Ông Trời. Chúng tôi c ầu Trời đừng mưa!!! Lời c ầu khẩn trước ấy đ~ thấu đến Trời thật, thời tiết hôm ấy thật đẹp, trời nắng xanh thẳm, không một bóng mây.
Sau khi điện b|o đồ ng ý cuộc thăm, tôi lại được đọ c những lời t ốt đẹp của tiến sĩ Izel: Tôi và Xtunner nóng lòng ch ờ ông hạ cánh ở Oasinhtơn”. Và cuối cùng chúng tôi lên đường. Tôi đi cùng vớ i con gái Êlena và ng ời phiên dịch Alêchxanđr Morôdốp. Sau ba ti ếng bay chúng tôi hạ cánh ở Phracuốc-na-Mainơ. Bay tiếp bảy tiếng nữa thì đến s}n bay Đalétx. Thật dễ chịu khi được gặp những bộ mặt đ~ quen hoặc chưa quen nhưng ai cũng tươi cười sung sướng. Sau khi ôm hôn thân thi ết với bạn bè, chúng tôi được làm quen với bà Viêcgionnhia d ễ m ến, v ợ ti ến sĩ Izel. Vợ chống Côxtelo say n{y cũng trở thành những người bạn t ốt của chúng tôi. Sau những lời chào hỏi, chúng tôi lên ôtô v ề Oasinhtơn. Nghỉ ngơi chút ít, chúng tôi vội v~ đến viện Xmitxônốp. Đ}y l{ một ngôi nh{ đồ sộ, đ~ để l ại trong tôi những ấn tượng không phai mờ. Về hoạt động khoa học v{ văn hóa gi|o dục của vi ện thì lại càng lớn và rộng khắp. Trong viện b ảo tàng của vi ện, tôi bất ng ờ được làm quen với nhà lịch s ử Nhật, Maxami Tôcôi, và Têruxi Dzimbô sang Vi ện chuẩn bị tài liệu nghiên cứu các mẫu vũ khí bộ binh khác nhau. H ọ tăng tôi cuốn sách của họ về vũ khí, trong đó có cuốn “AK-47 v{ c|c phương |n của Kalasnhicốp”. Khi xem bộ sưu tập vũ khí trong bảo t{ng v{ sau đó l{ c|c bộ sưu tập tư nh}n, tôi nhận ra rằng ở M ỹ không những người ta biết đ|nh gi| hiện t ại mà còn biết giữ gìn xứng đ|ng qu| khứ của mình. Th ật khó m{ tưởng tượng đượ c, ở đ}y có bao nhiêu loại vũ khí đ~ được chế t ạo và giữ gìn một cách c ẩn thận. Buổi t ối hôm ấy, chúng tôi được mời đi ăn tối trong một khách sạn ở thành phố Alêchxanđria, ngoại ô Oasinhtơn, nghe nói, khi sinh thờ i t ổng thống Oasinhtơn vẫn thích đến ăn trưa ở đ}y. S|ng hôm sau tôi đế n g ặp nhà thiết kế M ỹ nổi tiếng Xtôner trong khách sạn. Chúng tôi cùng ông đi thăm việ n bảo t{ng “Côsmôx” v{ đến thành phố Bantimor. Chuyến thăm thủy cung ở đ}y đ~ để lại cho tôi ấn tượng mạnh. Người phiên dịch cho chúng tôi trong cu ộc đi n{y l{ anh Anđrêax Tômberg – một người thạo tiếng Nga. Anh đề nghị tôi gặp gỡ với c|c đại diện của t ổ chức “Bảo vệ môi trường”. Ng{y 18 tháng 5, có cu ộc g ặp t ại đại s ứ qu|n Liên Xô sau đó thì đi thăm cơ sở của câu lạc bộ người đi săn “Nôvra”. Chúng tôi ăn tối xung quanh đố ng lửa và ở lại
đ}y chơi đến t ối. Nh}n viên đang chuẩ n b ị th ịt cho ngày mai, vì khách và thành viên câu lạc bộ sẽ đến nhiều. Người ta b|o trước cho tôi biết r ằng, sáng sớm mai tôi sẽ cùng đi săn với ch ủ t ịch câu lạc bộ, ngài Mactin. Tôi d ậy sớm m ột giờ trước khi đi v{ đợi M|ctin đế n sốt ruột. Và rồi chúng tôi đ~ ở trong rừng, súng đ~ nạp đạ n. Mactin trong tay c ầm còi nhưng lại không dùng đến mà dùng m ồm huýt giả tiếng thú rừng rất điệu nghệ! Thật hay, ông không biết tiếng Nga, còn tôi không bi ết tiếng Anh, nhưng chúng tôi lạ i hiểu nhau rất t ốt. Khi chúng tôi đ~ mệ t mỏi, ba lô rỗng không, trở về nơi tập trung, mọi người chỉ vào món thịt r|n: Đ}y l{ kết quả đi săn của các ông phải không? Chúng tôi cười vang gật đầu và trả lời: V}ng, đ}y l{ chiế n lợi ph ẩm thu được c ủa chúng tôi! Cuộc đi chơi đ~ diễn ra trong bầu không khí th ật ấm áp và thân ái. Chúng tôi phát hi ện ra người chuẩn b ị món thịt nướng ngon tuyệt đêm ấy l{ Etvar Giônsơn – m ột nh{ sưu tập đồ cổ v{ vũ khí c|c loại nổ tiếng ở Mỹ. Trong kho c ất giữ của ông, thôi thì không thi ếu thứ vũ khí n{o. Một ngày sau cuộc đi chơi, ông mời tôi đến ăn trưa tạ i tr ại c ủa mình. Đến đ}y chúng tôi mới biết, ông còn một sở thích nữa, hồi phục v{ lưu giữ các loại ôtô cổ. Ông dùng một chiếc đ~ được hồi phục lại đưa tôi đi. Trên bộ t ản nhiệt của chiếc ôtô có ghi năm sản xuất 1933. Mong sao bạn đọc đừng nghĩ rằng chúng tôi chỉ có thăm bảo tàng, đi picnic, dự các bữa ăn trưa được mời. Không, chúng tôi v ẫn nhớ mình đến Mỹ với m ục đích gì. Công việc chính theo chương trình đ~ định đượ c bố trí rất sít sao. Ch ẳng hạn, m ột số nhà sưu tập vũ khí của câu lạc bộ “Nôrva” mang đến các mẫu vũ khí bộ binh khác nhau đủ loại, kể cả trung liên đời cổ. Ai cũng muốn để Xtônner và tôi th ể n{o cũng phải bắn trúng để quay phim vì điều đó g}y uy tín lớn cho c|c nh{ sưu tậ p. Thực ra thì không phải mẫu n{o cũng hoạt động được, vì nó qu| cũ. C|c hình thứ c bên ngoài c ủa chúng thì vẫn dược giữ gìn, bảo quản t ốt. Các công việc của chương trình video đượ c tiến hành theo t ừng điểm một không vội vã. Ti ến sĩ Izel xem xét công việ c này rất kỹ lưỡng. Ông đ~ chỉ huy công vi ệc rất chính x|c, không để gi|n đoạn hay thay đổi bất cứ một điểm nào. Những ngày ở Mỹ cùng với Xtunner đ~ in s}u m~i trong ký ứ c tôi. Có lẽ s ự tôn trọng l ẫn nhau đ~ l{m cho cuộ c giao tiếp gi ữa chúng tôi được c ởi m ở hơn, x}y dựng hơn v{ thú vị hơn. Nói chung, ở Mỹ người ta nói và viết rằng, Xtunner là m ột “ngươi-bí -ấn”. Ông luôn trố n ch ạy các nhà báo và s ống ẩn d ật. Ông sinh năm 1922 ở bang Inđiana, kém tôi ba tuổi. Xuất thân t ừ m ột nhân viên về k ỹ thuật trong công ty “Lốctrít” nổi tiếng. Đầu chiến tranh ông tham gia thi ết kế đạn, sau đó mới
thiết k ế vũ khí bộ binh. Sáng chế hoàn thiện nhất c ủa ông là kh ẩu súng trường M.16, đ~ kịp đem sử dụng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Khác với khẩu AK của tôi, khẩu M16 được cấp bằng sáng chế và t ừ bấy đến nay, Xtunner được nhận một đôla cho mỗi khẩu sản xuất ra. Cho đến thời điểm này ông đ~ có được một gia sản lớn, như trong b|o chí đ~ viế t rằng, nó đủ để đảm bảo một “cuộc sống không nghèo cho con, ch|u”. Ông có gầ n một trăm s|ng chế khác nhu, trong đó nhiều sáng chế đem lại l ợi nhuận, v{ nói chung ông l{ ngườ i c ủa công việc, một nhà kinh doanh. Báo chí Mỹ viết khá nhiều về chuyến đi của chúng tôi. M ột lần, Lêna, con gái tôi ch ỉ cho tôi một bài trong t ờ báo và nói v ới tôi; Ở đ}y người ta viết r ằng, Xtônner có m ột tài sản lớn nhưng không có lấy một hu}n chương… còn ngược lại ở bố thì có biết bao nhiêu l{ hu}n huy chương, còn tiền thì… Bố ơi, bố hãy nói, giả sử nếu đổi được, thì liệu bố…” Tôi trả lời ho{n to{n ch}n th{nh “Không”. Tôi rấ t hài lòng khi th ấy Lêna cũng sung sướng h ồn nhiên trước câu trả l ời c ủa tôi. Dù sao chăng nữa, thì chúng ta vẫn thuộc một lớp người kh|c. Tôi nói điề u này không phải theo hệ tư tưởng cộng sản, mà tôi muôn nói v ề mối quan hệ thuần túy người Nga của chúng ta đối với Tổ quốc thân yêu của mình. Vâng, chúng tôi là nh ững con người như thế . Cả Bộ quốc phòng Nga và B ộ quốc phòng Mỹ đều không hay bi ết gì về chuyến đi của chúng tôi, k ể cả vi ệc tôi v{ Xtônner được m ời đến thăm một trong những căn cứ quân sự Covônticô c|ch Oasinhtơn 36 dặ m. Chỉ huy trưởng căn cứ, tướ ng Côpphin giới thiệu chúng tôi với đơn vị lính thủy bộ binh, và xem tiểu đo{n huấn luyện chiến đấu luyện t ập. Có một điều thú vị là, ở căn cứ “lính thủy bộ binh” n{y, ngườ i ta tiến hành thử súng quân dụng và súng thể thao nhận t ừ nhà máy sản xuất về và tiến hành chỉnh ngay t ại chỗ để đạt được các thông số cần thiết. Độ chụm khi bắn được đặc biệt quan tâm. Vi ệc xử lý các thông tin trong khi b ắn được tiến hành bằng h ệ thống máy tính, cho nên r ất nhanh và chu ẩn xác. Những sai sót của nh{ m|y được khắc phục b ằng tay ngay t ại ch ỗ. Ph ải nói rằng s ự k ết h ợp gi ữa k ỹ thu ật điện t ử m ới nh ất và tài nghệ của b{n tay con ngườ i thật là ấn tượng.
Sau đó tướng Côpphin mỉm cười nói: “B}y giờ chúng tôi mu ốn để những nhà sáng chế vũ khí hiển l ộ t{i năng sử d ụng vũ khí… Tôi hy vọng là các ngài không ph ản đối sang phóng bắn t ập?” Trong phòng bắn t ập, chỉ huy trưởng căn cứ đ~ g{i sẵn “c|i bẫy” chờ chúng tôi. “Có một yêu cầu đối với các ngài – Tướng Copphin cười cởi mở hơn. – Ngài Xtunner sẽ bắn AKM còn ngài Kalasnhic ốp bắn M.16. Hy v ọng l{ đề nghị của chúng tôi được chấp thuận?”
Chúng tôi v{ Xtunner cùng cườ i: Có gì mà không ch ấp thuận được?
Bắn xong, chúng tôi trao đổi súng cho nhau, xem k ết quả. Hóa ra k ết qu ả b ắn đều làm hài lòng m ọi người, g ần như nhau, cả hai nhà thi ết kế và c ả hai mẫu đều không thua kém nhau chút nào.
Tướng Côpphin nhận khẩu súng t ừ tay tôi, tung nh ẹ lên cao, rồi khéo léo b ắt lấy. Có thể chính ông ta cũng l{ mộ t xạ thủ xuất sắc. - Phải thừa nhận rằng – Ông ta nói – Trong chiến đấu tôi thích kh ẩu AK của ngài hơn, ng{i Kalasinhicốp. Tôi đ~ từ ng chiến đấu ở Việt Nam, chỉ huy một ph}n đôi. Tôi luôn muốn có khẩu tiểu liên của ngài: Kalasnhic ốp. Kalasnhicốp, tôi muốn nói một điều: So với M.16, t ốc độ b ắn AK khác, ti ếng nổ khác. Nếu tôi mà b ắn AK thì lính c ủa tôi sẽ bắn vào tôi t ức kh ắc, vì họ cho rằng bên cạnh tôi có Việt c ộng, rằng tôi bị nguy hiểm. Vì vậy chỉ đ{nh ngắm nhìn khẩu tiểu liên của ngài. Xtunner gật đầu t|n th{nh, c|c sĩ quan cao cấp đứ ng cạnh chỉ huy trưởng căn cứ cũng gật đầu đồng tình, t ỏ ra hiểu biết v{ t|n thưởng. Rõ ràng, không c ần nói ta cũng biết, không chỉ có một mình tướng Côpphin đ~ từng có mặt ở Việt Nam. Tôi viết điều này không ph ải để một lần nữa nhấn mạnh tính hơn hẳn của khẩu AK so với vũ khí tương tự nước ngo{i… M{ tôi muốn nói về một điều khác, về người thợ khéo tay, về những người có bàn tay vàng và v ề những nhà sáng chế chúng tôi… Bao giờ ta m ới hồi phục được một tiềm năng vĩ đại còn ẩn chìm trong bóng t ối để, để làm cho mọi người chúng ta đều phải say mê cu ốn hút vào t ất cả các sản phẩm có ghi dòng chữ”mêđin”… Đến bao giờ chúng tôi mới t ự hào, r ằng sản phẩm đó được sản xuất t ại Nga.
Cũng v{o ng{y 22 th|ng 5 hôm đó, lúc 19 giờ 30 phút, trong b ảo tàng thủy quân lục chiến, một bữa tiệc chia tay đ~ được t ổ chức. Những người dự tiệc đ~ ph|t biểu chân thành nồng hậu về cuộc thăm của chúng tôi và sự cần thiết củng cố tình hữu nghị giữa hai nước. Tôi còn giữ làm kỷ niệm một t ờ giấy lớn trên đó có hình khẩ u AK-47 của tôi và hình kh ẩu M.16 của Xtunner, dưới hình hai kh ẩu súng là bút tích của những người dự tiệc. Để kết thúc câu chuyện về chuyến đi của chúng tôi, tôi mu ốn nhấn mạnh rằng, trong khuôn khổ thời gian của chuyến thăm, chúng tôi đ~ kế t bạn được với nhiều các bạn mới, t ốt. Và t ất cả những điều t ốt đẹp m{ tôi đ~ kể ra ở chương n{y trước hết thuộc về một người đ~ đứng ra t ổ chức thành công cuộc thăm trong một thời gian ngắn v{ khó khăn như thế. Tôi không biết dùng lời cảm ơn n{o cho xứng đ|ng vớ i những công sức mà bạn tôi, tiến sĩ Etvar Clơntơn Izel đ~ th{nh công cho việ c này.
CHUY ẾN THĂM TRUNG QUỐ C Ng{y 2 th|ng 4 năm 1991, tôi nhậ n được bức thư tay của tiến sĩ Izel, trong đó viết: Trong cuộc đến thăm năm ngo|i, ng{i Lai Xzin Le, chủ t ịch t ập đo{n công nghiệp phương Bắc đ~ gặp ông và m ời ông sang thăm Trung Quố c. Giờ tôi được phép mời ông sang thăm xí nghiệp sản xuất vũ khí bộ binh. Thời gian cuộc thăm thống nhất với ông là t ừ 19 th|ng 8 đến 2 th|ng 9 năm 1991. “Gôsivan, Tổng thư ký tập đo{n công nghiệp phương Bắc”. Trong thư đ|p, tôi cảm ơn lờ i mời và thông báo nh ững người tham dự chuyến đi có Vichtor con trai tôi, và nhà công ngh ệ Epghênhi Sumcốp. Sau khi làm xong th ủ t ục giấy t ờ đi Trung Quốc, chúng tôi v ề M|txcơva trước chuyến bay một ngày. Vào ngày bay, ở khác sạn bỗng nhiên nghe thấy trên rađiô ph|t đi lời kêu gọi của “ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp”. Chúng tôi liên lạ c với ân bay h ỏi xem li ệu chuyến bay có bị hủy không? Hóa ra không có gì thay đổi. Chúng tôi lên đường ra sân bay. Su ốt qu~ng đường đi, tôi luôn trong t}m trạ ng nặng nề, vì không hay bi ết gì về tình hình mới. Bay trên trời, m{ lòng thì hướ ng về một điều ở dưới đất: điều gì đang xảy ra ở nhà? Sau tám ti ếng bay, chúng tôi h ạ cánh xuống sân bay Bắc Kinh. Nhìn nét m ặt những người ra đón, tôi có cả m giác là h ọ cũng muốn h ỏi: Thế n{o, tình hình c|c anh bên đó thế n{o? V{ chính chúng tôi cũng đang nghĩ về điều mà chúng tôi không bi ết gì. Phiên dịch viên Sen-Uunsai nói r ất sõi tiếng Nga đón chúng tôi. Anh ta giớ i thiệu chúng tôi với nhóm người đi đón, chúng tôi lên xe về Bắc Kinh để sắp xếp chỗ ở trong khách sạn. Nghỉ ngơi hai tiếng đồ ng hồ, chúng tôi đến phòng họp của Hiệp hội để đọc báo cáo trước c|c chuyên gia đầu ngành công nghiệp quốc phòng.
Ng{y 21 th|ng 8 thăm viện bảo t{ng Gugun (cung ho{ng đế), buổi chiều tiếp t ục đọc báo cáo và trả lời câu hỏi. Tôi để ý thấy trong hai ng{y tôi đọc báo cáo, mọi người tham dự đều t ập trung cao độ ghi chép lời dịch bài phát biểu của tôi. Cuộc gặp hôm sau là ở viện Vũ khí nhẹ. Khuôn viên của Viện rộng tho|ng, được chăm sóc kỹ càng. Trong các phòng thí nghi ệm được trang bị các thiết bị hiện đại nhất. Hầu như c|c c|n bộ công nhân viên ở đ}y đều có trình độ chuyên môn cao. Cuộc gặp giữa chúng tôi di ễn ra trong tinh th ần cùng quan tâm lẫn nhau. Trong phòng bắn t ập chúng tôi được đề nghị bắn một số mẫu vũ khí kh|c nhau.
Và ở đ}y đ~ diễn ra một sự kiện nhỏ l{m tôi rơi v{ tình thế rất khó chịu. Tôi b ắn khẩu tiểu liên c ỡ nhỏ, ngắn nòng và không có b ộ phận giảm thanh. Tôi đ~ đeo c|i che tai, nhưng người quay camêra c ảm thấy không ổn, – có lẽ anh ta cần hình ảnh “Kalasnhicốp không che tai”. Anh ta đế n gần tôi v{ th|o c|i che tai ra… Tấ t nhiên tôi có thể không đồng ý! Cứ giả thử là anh ta không biết hậu quả sẽ ra sao n ếu bắn không che tai, thì tôi ph ải th ừa hi ểu điều đó chứ. Nhưng do đầu óc lúc đó thế nào ấy, có thể l{ do kiêu h~nh, cũng có thể do ngang bướng nghề nghiệp không để ý gì đến việc dừng bắn mà cứ tiếp t ục xiết cò. Lúc bắn xong, tôi bắt đầu nghe thấy tiếng ù tai. Ti ếng người nói trực tiếp cạnh mình nghe cứ như ở đ}u từ xa vọng t ới. và th ế là tôi hiểu r ằng tính ương bướng c ủa mình đ~ g}y ra t|c hại… Thật đ|ng tiế c cái giá ph ải trả quá lớn: t ừ bấy đến nay tôi nghe kém hẳn.
Ng{y hôm sau, chúng tôi đến nhà máy ch ế t ạo vũ khí bộ binh ở thành phố Trùng Khánh. Ở đ}y chúng tôi thấy lại môi trường quen thuộc cũ của mình, có điều là nó còn đang ở “thời kỳ thai nghén”. C|c ph}n xưở ng nằm trong các đường hầm ngầm trong núi có r ất nhiều thiết bị của những năm 50. Nhiề u các chi tiết được gia công bằng tay. Do thừa nh}n công nên c|c ph}n xưở ng chỉ làm việc có bốn giờ một ngày. Chúng tôi còn có m ặt ở hai thành ph ố kh|c, nơi đó có nh{ m|y chế t ạo vũ khí. Ở đ}y chúng tôi thấy các tòa nhà sáng s ủa của c|c ph}n xưởng hiện đại được trang bị các thiết bị hiện đại có năng suấ t cao. Sản phẩm chế t ạo ra, như b}y giờ ta thường nói, phù hợp với tiêu chu ẩn quốc t ế. Mặc dù ngày làm việc được bố trí rất s|t sao, người Trung Qu ốc vẫn quan t}m đến việc t ổ chức nghỉ ngơi một c|ch có ý nghĩa… Chúng tôi đ~ đi thăm Vạn Lý Trườ ng Th{nh, thăm khu rừng Đ|, mộ t kỳ quan của t ự nhiên… Sau đó chúng tôi trở về Bắc Kinh chuẩn bị về nước.
Ở B ắc Kinh, Tổng biên t ập t ạp chí Quân sự Lý Hùng đề nghị tôi trả l ời ph ỏng vấn. Sau đ}y l{ một đoạn trích trong bu ổi phóng vấn đó: “Viện nghiên cứu mà chúng tôi đến thăm quan có trình độ kỹ thuật cao. Ở đó đ~ tiến hành nghiên c ứu nhiều sản phẩm mới. Tuy nhiên trong th ời gian thăm quan c|c nh{ m|y chún g tôi phát hi ện thấy một số nhà máy thiết bị đ~ qu| lạc hậu. Các công việc nặng nhọc làm bằng tay còn nhiều. Tuy nhiên, trong nh ững điều kiện không thuận lợi đó, sản phẩm được sản xuất ra vẫn có chất lượng cao. Điều đó đ~ l{m chúng tôi ngạc nhiên. Vũ khí đượ c sản xuất với nh ững loạt nhỏ như vậy, công ngh ệ như thế có thể đảm b ảo được. Lần đầu tiên tôi đến Trung Quốc, tôi cho r ằng cuộc đi đ~ đem lại nhiều ích lợi. Mặc dù thời gian đi thăm trôi qua nhanh chóng, nhưng tôi vẫ n k ịp nh ận ra rằng nhân dân Trung Quốc lao động rất c ần cù. Điều đó đ~ để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc. Còn một điều nữa tôi muốn nói là: Xin chúng ta hãy nh ớ lại những khẩu hiệu cũ: Chúc cho
tình hữu nghị gi ữa hai nước chúng ta đời đờ i b ền v ững! Tôi muốn thông qua t ạp chí của các bạn g ửi l ời c ảm ơn tới Hi ệp hội các chuyên gia c ủa ngành công nghiệp quốc phòng đ~ mời tôi sang thăm, v{ cảm ơn c|c bạ n vì lòng mến khách, tình c ảm bè bạn, thân ái, nồng nhiệt.
BAY SANG ACHENTINA Việc tôi được cử tham gia vào thành ph ần đo{n đại biểu đi dự triển l~m “Vũ khí 91” ở Achentina, đối với tôi là một b ất ngờ l ớn. Đa số thành viên cỉa đo{n l{ c|c nh{ quân sự. Ý tưởng tham gia cuộc triển lãm này là c ủa chính họ v{ được Bộ Công nghiệp Quốc phòng ủng hộ. Mặc dù vẫn biết là mọi mối quan t}m đều do họ giải quyết, nhưng tôi vẫn thấy lo lo. Ở đất nước xa xôi mà ta còn ít bi ết đến kia liệu sẽ tiếp chúng tôi như thế n{o? Hơn nữa, tôi cũng chưa thậ t hiểu rõ vai trò c ủa mình trong cuộc triển l~m n{y… Nhưng, như một nhà quân sự n ổi ti ếng đ~ tưng nói – hãy cứ vào trận đ~. Bắt đầu chuẩn bị t ặng phẩm… Thật bực mình đến đau xót trong lòng. Lịch sử ng{nh vũ khí của chúng ta bắt đầu t ừ rất sớm, nhưng t{i liệ u về nó hầu như rất ít. Thật đ|ng tiếc là chúng ta luôn d ề cao các nhà chế t ạo vũ khí nước ngo{i, còn đối với những người trong nướ c thì t ỏ ra nghi ngờ. Trong ký ức chúng ta có đầy r ẫy những thí dụ đ~ xảy ra trong quá kh ứ xa xưa. Chúng ta đ~ chiến thắng trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai cực kỳ gian khổ, vũ khí chiến thắng đ~ được chế t ạo trong những điều ki ện vô cùng khó khăn. Nhưng ta biết tìm đọ c ở đ}u về nh ững nhà thiết kế như Gorulốp, Xuđaép, Spangin, Nhikitin? Vì họ không chỉ xứng đ|ng được nhắc t ới – nếu được thế thì cũng đ~ tốt – mà phải có t ừng câu chuyện kể, nói về họ và ph}n tích đầy đủ những hoạt động có hiệu quả và to lớn của họ. Tôi muốn làm sao có được những cuốn sách viết về họ được minh họa đẹp đến thế! Họ xứng đ|ng được như thế.
Đ~ đến ng{y chúng tôi lên dườ ng. Ở M|txcơva thời tiết mát. Thế còn thời tiết ở Achentina xa xôi như thế n{o? Nơi m{ v{o thờ i điểm ấy tôi chỉ biết ở đó có điệu nhảy tăngô nổi tiếng mà thôi. Toàn bộ đo{n đại biểu chúng tôi t ập trung ở sân bay Trcal ốp. Tất c ả chúng tôi đều biết nhau, điều đó rất vui mừng: Đều là các b ạn chiến đấu cũ!… Ghi tờ khai hải quan xong, 16 giờ 30 phút giờ M|txcơva ng{y 5 th|ng 10 năm 1991 chiếc IL62M c ất cánh
lên đường đi Achentina.
18 giờ 30 phút chúng tôi bay qua biên gi ới. 20 giờ 15 phút bắt đầu đến thành phố Xíilia, có r ất nhiều ánh lửa nhấp nháy – giống như những ngôi nhà lớn ở ta |nh đèn nhấ p nháy sáng trong th ời gian lễ hội. 20 giờ 25 phút, Manta. Nh ững ánh lửa dài liên ti ếp d ọc theo các tuy ến đường. Chỉ có hai phút bay, Manta đ~ ở phía sau.
Trong khoang may bay thông b|o, đại t| Muamar Cađaphi cho phép chúng tôi bay qua lãnh thổ Libi. Vào lúc 20 gi ờ 30 phút t ổ trưởng t ổ lái Zakharôvich m ời tôi vào buồng lái. Tổ lái hài lòng, vui v ẻ, t ất cả đều tươi cười. M ọi người đều t ỏ ra quan tâm v{ chú ý đến tôi. Máy bay bay ở ch ế độ t ự động lái nên h ọ có thể làm thế được. Ngồi ở khoang lái nhìn xu ống đất, thấy khác hẳn – trước mặt tôi hình như cả vũ trụ trải d{i ra phía trướ c. “Ông có biết t ại sao dại t| Cađaphi cho phép chúng ta bay qua l~nh thô Libi không/ – Zakharôvích h ỏi tôi – Thường thì chúng tôi ph ải bay vòng…”. Tôi trả lời rằng “không biết vì sao?”. - Sau khi được bi ết rằng trong máy bay có nhà thi ết k ế Kalasnhicốp, thế là ông ra lệnh cho phép bay qua, đ}y l{ sự biểu hiện kính trọng đối với riêng ông! Làm cách nào có th ể đ|p lại dấu hiệu t ỏ rõ tình h ữu nghị này của nh{ l~nh đạo Libi?… Tôi nhờ Zakharôvích liên l ạc bằng vô tuyến, chuyển lời cảm ơn cử chỉ này. Tiếc r ằng không nghĩ ra ngay từ đầu đ{nh phải viết ra trên giấy vào lúc này, b ởi Libi một đất nước kiêu h~nh v{ đầ y bí ẩn đ~ lùi về phía sau. Vào lúc 1 gi ờ 10 phút, được lệnh cài dây b ảo hi ểm. Chúng tôi bay gần đến thủ đô Ghinê Cônacri. Ở đ}y cúng tôi phải nạp thêm nhiên liệu trước khi vượt đại dương. Máy bay hạ c|nh ban đêm trong điề u kiện thời tiết phức t ạp mưa, giông. Nhưng tổ lái có kinh nghiệm đ~ ho{n th{nh nhiệm vụ một cách xuất sắc – chúng tôi h ạ cánh an toàn. 1 giờ 50 phút, mưa r{o. Thang m|y bay kín được đưa tới. N{o, ta h~y đứ ng một chút trên lục địa châu phi và ngó nhìn xung quanh m ột l ần n ữa… Có một thượng úy người da đen tiến đế n gần tôi, nói tiếng Nga kh| sõi. Hóa ra anh đ~ được học ở Phrunze. Anh có ba v ợ v{ mười t|m ngườ i con. Tôi h ỏi: Anh có v ất vả với một gia đình lớn thế không? Anh tr ầm ngâm giây lát rồi thở dài: Nếu biết trước được tôi có khả năng như hiện nay thì khi ở Phrunze về th ế n{o tôi cũng mang theo về người vợ thứ tư… Thế giới được sắp đặt kể ra cũng hay thật! Tôi bỗng nhiên suy nghĩ: không biết cô n{o được anh ta chấm vai vợ th ứ tư?… Chắc cô ấy không thể n{o đo|n được rằng, ở mãi t ận nơi xa xôi n{y, có hai người đ{n ông đang nói chuyện về cô. Chúng tôi chia tay nhau, khi tôi b ắt đầu bước lên thang thì có m ột ai đó hỏi người thượng úy: Liệu anh có biết v ừa nó chuyện v ề gia đình với ai không? Đó l{ nh{ thiế t kế khẩu tiểu liên Kalasnhic ốp!
Người quen cũ của tôi đ~ thay đổ i nhiều qu|! Gi| như trở thành một người khác: người chiến sĩ!… Anh tay lấy tay bóp tr|n, như muố n nói rằng: Thế mà anh không
biết, để nói toàn chuy ện dông dài u ổng phí mất bao thời gian, Anh úp bàn tay vào trái tim và t ừ t ừ cúi người xu ống, sau đó chìa cả hai b{n tay ra như muố n nói, muốn hỏi về một điều chính yếu n{o đó v{ d|ng vẻ không nói c ủa anh lại cảm động hơn nhiều lời nói.
Tôi đ~ v{o khoang kh|ch, ngồi vào chỗ cũ cạnh cửa sổ và bỗng nhiên nhìn thấy người thượng úy đang đi dọc theo chiếc “IL” của chúng tôi và nhìn vào c ửa sổ. Tôi giơ tay ch{o anh, anh nhìn thấ y và lại giơ c|nh tay d{i ra về phía tôi; anh ta mu ốn hỏi tôi về điều gì, điều chính y ếu ấy? Nhưng tôi phải trả lời anh như thế n{o? V{ tôi cũng chưa sẵn s{ng để tr ả l ời điều ấy, không chỉ riêng người châu Phi bi ết tiếng Nga này, mà còn cho nhiều, nhiều người kh|c… 4 giờ 45 phút. M|y bay lăn ra đường băng. Thật tiếc, khi m|y bay qua đường xích đạ o thì mọi người đều ngủ. 9 giờ 45 phút. Bình minh phía chân tr ời. Có thể nói, tôi đ~ tỉnh giấc trong bình minh. 10 giờ 30 phút (vẫn theo giờ M|txcơva). Chúng tôi bay qua Braxin. Vào 10 giờ 50 phút. Phía ph ải m|y bay l{ Riôđờ Gianêrô. Phong c ảnh sáng sủa, một thành phố khổng lồ, tuyệt đẹp hiện ra trước mắt khoảng chừng bảy phút. Sau đó máy bay chui vào trong mây. 12 giờ 50. Gài dây b ảo hiểm! Máy bay hạ độ cao. Tiếng loa thông báo nhi ệt độ ở Buanôt-Airet là 7°C. Ở đ}y mùa xu}n vừa mới bắt đầu. Sau khi bố trí chỗ ở trong khách s ạn xong, tôi v{ trưởng đo{n đượ c mời đi ăn trưa: ở đ}y chúng tôi l{m quen với các nhà t ổ chức triển l{m… Có tất cả s|u người ăn trưa. Tôi cảm thấy m ọi người r ất quan t}m đến chúng tôi, đến ng{nh vũ khí của Nga, đế n các mấu súng của tôi mà ở đ}y trưng bầy khá nhiều. Ngày hôm sau, chúng tôi b ắt tay vào công vi ệc: Trả lời phỏng vấn các nhà báo và vô tuyến truyền hình. Tr ả l ời ph ỏng v ấn các nhà lãnh đạo c ủa c|c h~ng vũ khí. Có ai đó đ~ hỏi tôi có ph ải mẫu súng của Đức năm 1943 l{ tiền thân của mẫu AK-47. Tôi trả l ời r ằng, vào thời gian đó tôi đ~ có mộ t s ố m ẫu c ủa riêng mình r ồi. Tôi k ể v ề các mẫu đó v{ kể c ả con đường thiết k ế c ủa mình. Tại cu ộc ph ỏng v ấn tôi được trao quả kỷ niệm: súng lục Achentina v{ đạn kèm theo. Sang ngày thứ hai chúng tôi được gi|m đốc Viện Nghiên cứu khoa học qu}n đội Achentina t ới thăm. Gi|m đố c Viện đ~ tiếp chúng tôi trong b ầu không khí thi ện chí, t ốt đẹp cùng quan tâm lẫn nhau. Cuối buổi ti ếp, Viện trưởng hỏi tôi một cách thân ái
rằng: tôi đ~ kịp đi thăm những danh lam thắng c ảnh nào ở Achentina. Tôi tr ả lời: chỉ mới kịp thăm hai nơi. Những nơi n{o? Triển l~m vũ khí v{ kh|ch sạn, nơi tôi ở . Giám đốc hứa: Ngày mai tình hình s ẽ khác! Hôm sau, theo ch ỉ thị c ủa gi|m đốc, chúng tôi đượ c t ổ chức đi thăm khu vực thác nước nổi tiếng. Lúc đầu chúng tôi cứ nghĩ l{ gần, nhưng không phải. Sáng sớm chúng tôi lên một chiếc máy bay nhỏ, bay 1200km, sau khi h ạ c|nh chúng tôi đi tiế p trên một xe buýt nhỏ. Đường rất đẹp, hai bên là r ừng với nh ững cây lạ. Người hướng dẫn không chỉ giới thiệu về Achentina mà còn nói v ề các láng giềng. Bỗng nhiên anh thông báo rằng, chúng ta đang đi trên đất Braxin… Thế còn biên giới? Biên giới ở đ}y chỉ l{ quy ước. Th|c nước nổi tiếng và vùng ph ụ cận thuộc về Braxin. Đ}y l{ một trong những cơ sở du lịch của Braxin.
Th|c nước n{y đ~ để lại những ấn tượng hùng vĩ trong tôi. C|c tầng nướ c khổng lồ như từ những bờ cao dựng đứng của một con sông rộng đổ xuống một vực sâu thăm thẳm. Nơi tầng nước m ạnh nhất đổ xu ống được g ọi l{ “Họng quỷ”. Tự nhiên tôi nh ớ lại vực nước sâu trên con sông tu ổi thơ tôi ở Antai… V}ng, vực nướ c Braxin này có s}u hơn, nhưng qua m{n sương mờ ảo của nó, bỗng nhiên tôi lại thấy bức tranh chưa bị xóa nhoà của tu ổi niên thiếu ở quê nhà lại hi ện v ề ở m ọt vùng hoàn toàn xa lạ… Tạo hóa luôn xếp đặt chúng ta thế chăng? Để ph ục v ụ đông đảo khách du lịch, những chiếc máy bay trực thăng sơn m{u sặc sỡ bay dọc th|c nước, nhưng tôi không thích dạo chơi trên khô ng – ngay ở dưới đất nó cũng đủ ấn tượng rồi. Ngày 20 tháng 10, ngay t ừ sáng sớm chúng tôi đ~ đi ra khu triển lãm. Trong khi chờ Tổng thống Achentina đến thăm, chúng tôi đượ c mời đến xem c|c gian trưng bày của các hãng tham gia tri ển lãm. Những lời chúc t ụng t ốt đẹp, chụp ảnh, t ặng phẩm, ghi lưu bút… Khi l{m quen vớ i các vật trưng b{y, tôi rất thú vị khi thấy ở gian trưng bầy, mẫu AK của chúng ta được để ở vị trí trang trọng nhất. Khi t ổng thống đến gian trưng b{y của chúng tôi, tôi gi ới thiệu vật trưng b{y với Tổng thống. Ông giữ tay tôi lâu, nói nh ững l ời khích lệ với tôi. Viết nhưng c}u nói đó ra đ}y, tôi nghĩ l{ không khiêm tốn… Vì trong những trườ ng hợp như thế này thì những nhân vật cấp cao thường không kiệm lời khen ngợi. Và sẽ không đủ giấy bút để mà tái hi ện h ết nhưng lời tán t ụng tương tự. Nhưng đôi lúc tôi lại nghĩ: điều này không phải chỉ dành riêng cho cá nh ấn tôi, mà cho t ất cả chúng ta, nhân dân Nga, dành cho Tổ quốc chúng ta đang ở thời kỳ cực kỳ khó khăn n{y. Tôi trao cho T ổng thống t ấm ảnh m ẫu kh ẩu ti ểu liên với l ời đề t ặng. và rồi l ại g ặp gỡ, chúc mừng lẫn nhau, nhưng giữ a các cu ộc gặp gỡ ấy còn có mối quan tâm ngh ề nghiệp thật sâu sắc t ới các loại vũ khí có trong trưng b{y v{ chúng tôi có mộ t cảm
gi|c sung sướng rằng, chúng ta không phải xấu hổ trước bè bạn, v{ riêng tôi cũng thế. B|o chí Achentina v{ Brxin đ|nh gi| cao sự tham gia c ủa chúng tôi vào cu ộc triển l~m. Đầu đề của các bài báo th ật bất ngờ: “Kalasnhicốp – huy ền thoại sống cuối cùng của kỹ thuật vũ khí.”; “Mikhain Kalasnhcốp ngườ i lính biết vẽ”. Tôi muốn dừng lại một chút để nói về bài báo th ứ hai do bà Xudana Viau vi ết. trong bài báo này có nhiều điều hoang tưởng, những điều không chỉ liên quan đến riêng tôi mà còn có s ự nhầm lẫn. “Thực t ế, t ồn taị hai giả thuyết. Giả thuyết thứ nhất nói rằng, chủ nghĩa quốc x~ Đức bắt đầu bị sụp đổ trên bờ biển Noocmăngđi, giả thuyết thứ hai cho rằng, nó bị chôn vùi trong các l ớp tuyết dầy cùng với các chiến sĩ Hồng quân trên m ặt tr ận Nga. Tuy nhiên, c ả hai giả thuyết ấy đều không đúng. V{o thời k ỳ ấy, người này mới có 20 tuổi. Anh ta d|ng người không cao, trông kh ỏe m ạnh, có cánh tay v ạm vỡ, tóc bạc gần hết, mặc quần áo màu kaki, sinh ra ở một l{ng c|ch M|txcơva 100 km về phía đông. Anh l{ một ngườ i nông dân, chiến sĩ xe tăng, quen vẽ máy kéo, vẫn ch ỉ là (theo lời t ự k ể) một trung sĩ đ~ từng phải chiến đấu m ột cách tuyệt v ọng và phải tr ả bằng máu do thiếu vũ khí tự động. Bị ám ảnh b ởi ý tưởng n{y anh đ~ quyế t tâm tìm ra con đường, như trong tiể u thuyết hiệp sĩ, đến với AK-47; tiểu liên Kalasnhic ốp năm 1947. Từ đó kh|c với Côlt, Braoning, Smít, Vêxon, tên tu ổi Kalasnhic ốp – tên tuổi người trung sĩ đó đ~ gắ n liền với chính trị. Ông ta mới ra nướ c ngoài có ba l ần, một trong những lần đó l{ chuyến đi thăm triển l~m vũ khí ở Buanốt Airôt này. M ột nhân vật chưa được b|o chí địa phương biết t ới, nhưng đượ c giới trẻ bao quanh xin ch ữ ký, những người thợ và những người sưu tập vũ khí đặc biệt quan t}m đến v{ vũ khí của ông ta, đó chính l{ Kalasnhicốp, một nhân vật xuất chúng có ch ức vị và tên gọi rất d{i…” Tác giả bài báo còn d ẫn ra cả câu chuy ện truyền thuyết l}u đời r ằng Kalasnhicốp là bí danh của một nhóm các nhà thi ết kế “hợp lực dưới một cái tên nhân vật đ|ng yêu trong b{i thơ của một thi sĩ d}n tộc Nga”. Nếu ch ỉ có m ột mình ông ta, mà lại ch ỉ là m ột trung sĩ bình thường, thì ông không thể đủ s ức để nghĩ ra được ng ần ấy m ẫu vũ khí. Đúng l{ điều n{y đ~ rõ, vì từ lâu rồi tôi đ~ nghe c}u chuyện hoang tưở ng này. Tôi suy ngẫm v{ đọc b{i thơ: “B{i ca về người lái buôn Kalasnhic ốp” để tìm câu tr ả lời cho sự nghi ngờ của mình, một b{i thơ của Mikhain Iur ẻich Lécmônt ốp, một trong những nh{ thơ m{ tôi yêu mế n nhất. Thế nhưng, điều làm tôi buồn cười hơn cả l{ dưới bức ảnh tôi trong bài báo ghi dòng: “Kalasnhicốp – tượng đ{i của hu}n chương v{ củ a niềm vinh quang trong chiến đấu”. Không hơn, không kém… Ngày 21 tháng 10. Tri ển l~m đóng cửa. Các mẫu vũ khí đ~ đượ c bán, giờ chúng không thuộc về chúng tôi n ữa. Cảm thấy buồn buồn… Tôi ngồi trong phòng c ủa
khách sạn, c ửa s ổ để mở, tivi chỉ 9 giờ, nhiệt độ ngoài trời +18°C. Tôi xem tivi t ắt b ỏ tiếng chỉ xem hình thế m{ cũng hiểu được nhiều ra ph ết. Trên màn hình, T ổng thống đi xem triển lãm. Lại th ấy c ảnh tôi cầm và ngắm những m ẫu vũ khí c|c bạn t ặng tôi, tôi rất ng ạc nhiên: Sao ở đ}y mọi vi ệc đơn giản th ế? Các quà t ặng đó giờ n ằm ở đ}y: trên giá và trong valy. Hôm qua con s ố lại tăng thêm một, nghĩa l{ giờ tôi có t ất cả tám khẩu súng lục. Mỗi khẩu đều gắn thêm một chiếc đèn pin nhỏ, chẳng hiểu để bắn thỏ hay chuột v{o ban đêm. C|i giống ấy ở đ}y không hiếm, ban t ối đi còn vấp phải v{o ch}n. Đạn kèm theo các kiểu có 539 viên. T ất c ả những thứ này giờ thu ộc v ề tôi. Thật khó tưởng tượng nổi. Chắc mọi người không nghĩ rằ ng, tôi sẽ gặp bao nhiêu r ắc rối khi đến biên giới, khi khai báo H ải quan… v{ nếu còn đi đ}u tiế p nữa…?
Ở đ}y tôi bỗng nghĩ đến biết bao lo toan vất vả, biết bao khổ đau, tai họa đang chờ chúng tôi ở nhà, có biết bao bi kịch s ẽ x ảy ra trên to{n nướ c Nga, khi nào mà nó còn “mang căn bệnh” vũ khí, như mộ t thời ở đ}y đ~ từng mang căn bệnh đó. Hay l{, đ}y sẽ là một giá quá đắt? Mà cái chính là ta không hi ểu nổi: Vì cái gì mà chúng ta ph ải trả gi| c|i đó. Ngày 22 tháng 10. T ừ s|ng chúng tôi đ~ sắp x ếp đồ đạc… v{ vũ khí. Đêm, một cơn giông đ~ nổi lên dữ đội. Người ta nói rằng, ở đ}y những cơn giông như vậ y không hiếm. Lúc này là 12 gi ờ đêm. Trời mưa, ngo{i phố nhiệt độ +19°C. Bu ổi t ối tôi có cuộc nói chuyện lâu với k ỹ sư trưởng nh{ m|y vũ khí Tula Cuzơnbetxố p. Tất nhiên, ông cũng rất lo lắng về tương lai. Chính biến, điề u này t ốt thôi, nhưng l{m thế n{o để cho một nhà máy lớn như Tula với một tiềm năng, năng lực tích lũy lớ n mạnh như vậy t ồn t ại…? Ôi, Tula! Tất cả sức mạnh đó b}y giờ hướng về đ}u? Rồi tình hình sẽ diễn biến thế nào? Cùng ng ồi nói chuy ện với chúng tôi còn có N.A. Bebôrôđố p và Ei.I. Nôvakhôtcô. Tất cả chúng tôi đều gặp nhau ở một điểm: Không thể t ừ bỏ những vị trí đ~ gi{nh được, vì ngay ở đ}y, Buainốt Airét một l ần nữa ta lại th ấy rõ: ng{nh vũ khí Nga đ~ được đ|nh gi| cao thế nào. Ngày 23 tháng 10. Th ời ti ết n ắng ráo. Từ s|ng đến trưa, tôi ở trong phòng, sau đó đi cùng Mactưnốp ra vườn hoa nhỏ ch ụp ảnh. Măc dù chúng tôi đ~ có nhiêu cố gắng, và chủ nhà rất m ến kh|ch, nhưng chúng tôi chưa kịp đi thăm nhiều nơi trong th{nh phố tuyệt vời n{y…. S|ng mai chúng tôi đ~ lên m|y bay về nước. Chụp ảnh xong, tôi tr ở về phòng. Sau đó lại phải đi cùng một cán bộ qu}n đội trong đo{n, rồi lại một người nữa. Và thế là xảy ra một câu chuyện kỳ lạ.
Chúng tôi thay nhau, người nọ chụp cho người kia, r ồi t ự nhiên chúng tôi ngó quanh, xem ai có th ể nh ờ b ấm máy chụp cho chúng tôi. Có m ột chàng trai cao l ớn đi giầy mũ nhọn, đôi mũ người đi chăn gia súc, cưỡ i ngựa, đi qua, tôi gọi: “Amigô!” “Nghĩa l{ “bạn”. Tôi cũng chỉ nói được thế, còn thì ra hi ệu rồi quen mồm nói: “Đ}y, bấm v{o đ}y, giúp cho tôi, đ}y!…” “B|c có phải ngườ i của ta không ạ?” – Chàng trai
hỏi bằng tiếng Nga rất th ạo. “Ch|u l{ người Nga?” – Tôi ngạc nhiên hỏi. “Gần như thế ạ. – Chàng trai nói – Bố ch|u l{ người Bạch Nga, mẹ ch|u người Ucraina. Cháu là người Nga!” “Ch|u sang đ}y bao giờ?”. “Ch|u sinh ra ở đ}y b|c ạ!” “Ở đ}u? – tôi hỏi vì không hiểu – “Sao, sinh ra ở đ}y {?… “Ở Airet! Còn bác, có l ẽ không phải người ở đ}y, bác t ừ Nga đến? Bác ở đ}y bao l}u… Gần hai tuần à? Thế mà bác không biết r ằng, cứ 10 triệu dân của Buainốt Airét, c ứ ba người thì có một người của chúng t{?…Nếu không phải người Nga thì l{ ngườ i Ba Lan, không ph ải Ba Lan thì là Xecbi, nói tóm l ại l{ người Xlavơ. B|c không hiểu {?… Thế bác làm gì ở đ}y ạ?” Thực ra, chúng tôi làm gì nh ỉ? Có thể nói, th ực sự lâu rồi, tôi chẳng làm gì cả. Ngày 24 tháng 10. Th ời tiết tuyệt đẹp. 14h20’ chúng tôi đ~ ngồ i trong máy bay – mọi người vẫn ngồi vào chỗ cũ như khi bay đến đ}y. 14h45’ chúng tôi đ~ bay lên m}y, vượt đại dương để đến châu Phi.
20h45’. Đường xích đạo! Lần này chúng tôi không bỏ qua mà ghi nhận thời điểm bay qua. 21h45’ ngo{i m|y bay trời đ~ tố i. Chúng tôi h ạ độ cao. Nhìn th ấy m ặt trăng và nhìn thấy rõ cả cơn giông đang vần vũ trong c|c đ|m m}y ở phía phải. Côncơri lại tiếp chúng tôi ch ẳng êm ái chút nào. Lần này tôi không còn gặp người quen của tôi. Không bi ết bao giờ chúng tôi mới có dịp bay trở lại?
Đêm v{ s|ng chúng tôi bay trên c|c tầng mây, và bên trên n ữa là bầu trời quang đ~ng đầy sao. 10h30 theo đúng lịch bay chúng tôi đến M|txcơva.
L ẠI SANG MỸ Tôi không hề nghĩ rằng, trong v{i năm gần đ}y tôi đ~ có dịp đến ba nước: Mỹ, Trung Quốc, Achentina. Nhưng chưa hế t. Lại thêm một điều bất ngờ nữa của tiến sĩ Izel, tôi nhận được telex báo rằng nhà thiết kế Mỹ nổi tiếng Bin Riugot mời tôi sang
thăm h~ng “Sturmơ Ringơr v{ K”.
Từ hôm đó họ bắt đầu trao đổi thư từ với tôi t hông qua người môi giới của hãng là Maicơn Buxarđ. Ông ta đ~ gửi chương trình tham từ ng{y 13 đến ngày 29 tháng 6 năm 1991. Sau một thời gian, ông ta g ửi thư xin lỗi, do một số thay đổi, nên cuộc thăm sẽ chuyển sang cuối th|ng chín đầu th|ng mườ i. Buxard vi ết r ằng: vào thời k ỳ này rất thuận tiện, chúng tôi có th ể đưa ông đi săn, v{ ông đang chuẩn bị kế hoạch mới. Nội dung thông tin n{y Buxarđ gử i ngày 11 tháng 4 th ế màn gày 22 tháng 4 ông đ~ gửi cho tôi kế hoạch chi tiết của cuộc thăm. Tôi viết trả lời rằng, cùng đi với tôi có con g|i Êlena v{ ngườ i phiên dịch Valêri Silin.
Nhưng thời gian n{y cũng không thực hiện được cuộc thăm. M~i đến ngày 18 th|ng 2 Buxarđ mới thông báo rằng, ng{i Riugơr chủ h~ng “Sturm Riugơr v{ K” chính thức chân thành mời chúng tôi đến thăm Mỹ t ừ 19 th|ng 4 đến 1 th|ng 5 năm 1992. Trong thời gian thăm, tôi, Êlena v{ Silin sẽ là khách của ng{i Riugơr. Kèm theo giấy mời là m ột chương trình thăm rấ t nhiều nơi. Mục đích chính chuyến đi của tôi l{ đượ c gặp mặt với m ột trong những nhà thiết kế Mỹ nổi tiếng, người mà tên tuổi ông thường được nhắc t ới khi nói v ề vũ khí. C|i tên Riugơr tôi đ~ biết t ừ l}u, nhưng nếu được g ặp m ặt thì sẽ là m ột vinh dự l ớn đối với tôi. Tôi r ất thích thú khi th ấy trong chương trình có nhữ ng m ục đi thăm c|c nh{ máy sản xuất vũ khí bộ binh. Tôi mu ốn bắt chặt tay người đồng nghiệp – ng{i Riugơr để ủng h ộ ý đị nh c ủa ông là cùng tôi th ảo luân dự án hợp tác thiết k ế súng thể thao. Tôi cũng rất hoan nghênh các m ục khác của chương trình như: thăm Hiệ p hội vũ khí quốc gia, thăm th{nh phố Prexkôt và Phênik thu ộc bang Arizôna. Và ông, v ới t ấm lòng đôn hậu, rộng mở đ~ bố trí cho chúng tôi chuy ến đi đến Oasinhtơn để gặp gỡ với các bạn cũ của tôi trong chuy ến thăm Mỹ lần trước. Ngay t ừ khi nhận được chương trình thăm, chúng tôi đ~ nghĩ đế n việc chuẩn bị t ặng phẩm. Cuối cùng mọi người đều tán thành ý kiến: Chế t ạo m ột m ẫu AK thu nh ỏ để trong chiếc hộp chế t ạo đặc biệt, có trang trí nh ững chứ lồng ghép với nhau. Trên đó có đề dòng chữ người t ặng và t ặng ai. Vi ệc này những người thợ khéo tay đ~ tỏ rõ t{i năng của mình. Tặng phẩm đ~ sản xuất xong, hình thức đẹp, trang trọng, không có cái gì thừa. Giờ thì phải ch ọn m ột ít tài liệu v ề vũ khí, tiếc r ằng chúng ta có quá ít tài liệu về lĩnh vực này.
Công việc chuẩn bị đ~ xong xuôi, chúng tôi lên M|txcơva v{ mộ t ngày sau thì sang Mỹ. Chuyến bay vượt đại dương không có gì trụ c trặc. Chúng tôi đ~ tới Bostơn. Ra s}n bay đón chúng tôi l{ Maicơn Buxarđ, người đ~ trao đổi thư từ với chúng tôi. Chúng tôi dừng lại một đêm ở khách sạn “Hintơn” ngay cạnh sân bay. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đi ôtô đến thành phố Phônik bang Arizôna. Chúng tôi được bố trí ở t ại khách sạn “Sêratôn”. Người ta nói r ằng phòng tôi ở là phòng thường dành cho Tổng thống. Khi bước vào phòng tôi thấy trên bàn có một bó hoa với dải băng vắt qua in bi ểu tượng h~ng Riugơr. Chúng tôi thố ng nhất với đại diện của hãng về việc tham quan nhà máy và cu ộc gặp chính thức đầu tiên với Bin Riugơr t ại đó. Hiện ông đang đi vắ ng và sáng hôm sau m ới về dinh thự của mình.
S|ng hôm sau, lướt qua thành phố một vòng, chúng tôi ti ến ra vùng ngoại ô, nơi có nhà máy của h~ng “Sturm Riugơr v{ K”. Maicơn Buxard cùng đi với chúng tôi đ~ kể chi tiết về cách vùng ngoại ô của thành phố. Chúng tôi đến nh{ m|y. Buxarđ dẫ n chúng tôi vào phòng làm vi ệc của ông, cạnh phòng làm việc của Riugơr. Người thư ký b|o với chúng tôi r ằng, ng{i Riugơr đang đợi chúng tôi. Chúng tôi sang phòng Riugơr. Ông l{ một ngươi cao lớ n, vẻ đĩnh đạc đi về phía tôi v ới n ụ cười kín đ|o. Chúng tôi ôm hôn nhau. Tấ t cả đều đơn giản không một lời thừa. Tôi sẽ không phải, n ếu nói rằng trước con người này tôi không h ồi h ộp. T ất nhiên l{ có! Nhưng khi nhìn thấ y nét mặt tươi cười đôn hậu, nghe thấy giọng nói nhẹ nhàng dễ chịu thì mọi hồi hộp đ~ biến mất. Khi nói chuyện với ông, tôi c ứ đinh ninh: như l{ chúng tôi quen nhau t ừ lâu rồi! Kết thúc cuộc nói chuyện, Bin Riugơr mờ i chúng tôi t ới nh{ ông ăn tối. Trong không khí gia đình thoải mái ở đ}y, chúng tôi trò chuyện thân tình với nhau về cuộc sống của m ỗi người. Ăn tối xong, ông ch ủ nhà t ốt b ụng b ảo r ằng, ngày mai chúng tôi s ẽ đi ôtô thăm th{nh phố Gran Canon.
Trên đường về khách sạn, chúng tôi ngắm nhìn thành phố Prexcôt được chiếu sáng rực rỡ. nằm trên địa th ế đồi núi. Khách sạn “Sêratôn” về đêm, nhìn từ ôtô trông như treo lơ lửng trong không trung. Vì n ó được xây dựng ở một độ cao lớn so với thành phố. Con đường nhựa phẳng lỳ dẫn đến khách sạn như l{ c|i dả i bao quanh quả núi. Sáng sớm, Buxarđ v{o phòng tôi v{ nói rằng, Riugơr đ~ lên đườ ng Gran Canôn. Chúng tôi rất ngạc nhiên, sao ông ấy đi m{ không đợi tôi? Maicơn cười, r ồi k ể rằng, ngo{i vũ khí, Riugơr còn có một đam mê nữ a là ôtô c ổ. Ông đi trên chiế c xe sản xu ất t ừ năm 1932 do chính ông hồ i phục, nên ông đ~ đi trước và nói rằng, chúng ta s ẽ đuổi kịp ông trên đường.
Quả thật, đi được độ 100km chúng tôi đ~ đuổi kịp chiếc “Secrôn” cổ của ông. Từ trong xe Riugơr tươi cười v ẫy tay chào chúng tôi và nói to: ti ến lên, chỉ có tiến lên! Cảnh tượng thật l{ kh|c thường. Chiếc xe đời cổ còn nguyên b ản t ừ thời xa xưa ấy, nhưng c|c chi tiết mạ kền vẫn còn bóng loáng, sơn mới tươi rói, chứ ng t ỏ là chủ nh}n đ~ bỏ ra bao nhiêu công s ức với nó.
Sau đó, Riugơr đề ngh ị tôi đi bằng xe với ông. Tôi r ất thích thú và lên xe cùng ông. Có rất nhiều người du lịch muốn chịp ảnh chiếc xe có “hai lần sinh” n{y. Chúng tôi đến gần Gơran Canôn… Thậ t khó nói r ằng t ừ bao giờ và làm thế nào mà thiên nhiên đ~ tạo ra một nơi kỳ thú như thế này. Từ xa hàng mấy kilômét, vùng đất n{y đ~ như vỡ toạc ra làm thành hai phía t ạo ra một cái hào sâu có muôn hình dáng vẻ. Không, t ừ “h{o” có lẽ không đúng. Khi ta đương ở một phía nhìn sang phía đố i diện của thung lũng thì dường như, ta thấy những công trình n{o đó nhấp nhô, những con vật và cả những bóng d|ng người. Tóm lại l{ đủ hình d|ng để cho bộ có ta thư gi~n v{ trí tưởng tượng bay bổng. Để phục v ụ khách du l ịch ở đ}y có một m ạng lưới đường nhựa rộng khắp, các nhà hàng, quán cà phê kh ắp nơi, dịch v ụ chụp ảnh, cưỡi ngựa dạo chơi. Trở về khách sạn chúng tôi mệt nho{i, đầy ắp những ấn tượng. Ng{y mai 23 th|ng 4, chúng tôi đế n thành phố Phêníc. Sau đó cùng với Riugơr bay đến Xôn Leic Xity. Đến nơi chúng tôi dừ ng lại ở khách sạn “Clariôn”. Ở đ}y chúng tôi gặp lại tiến sĩ Izel. Cuộc thăm Hiệ p hội Vũ khí quốc gia v{ gian trưng b{y đ~ để lại cho tôi ấn tượng rất t ốt đẹp. Bất c ứ gi| vũ khí n{o trưng b{y ở đ}y cũng đều đem lại thích thú rõ rệt cho c|c chuyên gia trong lĩnh vự c này. Những ngươi cùng chí hướng, những người ngưỡng mộ cứ vây quanh lấy Riugơr. C|c phóng viên b|o chí, nhữ ng người săn chữ ký cứ bủa vây lấy ông. Trong cu ộc trưng b{y n{y, chúng tôi đ~ có nhiều cuộc làm quen mới. Theo chương trình của Hiệp h ội, s ẽ t ổ chức một hội nghị trong đó có tôi tham dự với tư c|ch l{ kh|ch danh dự của h~ng “Riugơr”. Chúng tôi bước v{o phòng, trong đó có mặt đông đủ c|c chuyên gia ng{nh vũ khí. Mọi ngườ i có mặt ch{o đón tôi và Riugơr bằng những tràng vỗ tay. Chúng tôi đi qua s}n khẩu nhỏ, cảm ơn về những lời chào, và ng ồi xuống b{n kê trước mọi người trong phòng. Và b ắt đầu cuộc họp b|o. Người phiên dịch nói rằng ông Riugơr mời tôi phát biểu. Tôi tiến đến micrô, kể về bản thân và về các loại vũ khí đ~ chế t ạo. Tiếp đó, tôi nhận xét rằng các mẫu vũ khí của hệ thống Riugơr, ngo{i tính năng chiến đấu cao, còn có hình d|ng đẹp. điều đó l{ sự thật. Kết thúc bài phát bi ểu tôi cảm ơn h~ng “Riugơr” đ~ tạo điề u kiện cho tôi được làm quen với ngành sản xuất vũ khí đa dạng v{ được thành công t ốt. Hội nghị kết thúc, chúng tôi sang phòng bên c ạnh, ở đó có c|c món ăn được nấu nướng ngon l{nh đang chờ chúng tôi. Chi ếc b{n ăn được bố trí rất khéo léo. M ột phía có biểu tượng lớn của hãng Riugơr, phía kia l{ biểu tượ ng cùng cỡ của nhà máy
Igiepxk chúng tôi – (hình tam gi|c v{ mũi tên biểu tượng vũ khí chiến đấ u). Buổi t ối đ~ trôi qua trong bầu không khí thân ái t ốt đẹp và rất chân thành.
Cũng như khi gặp Xtunner chúng tôi lại nói về việc cùng chung thiết k ế vũ khí thể thao… Riugơr đ~ nói rằng: “Thế l{ đủ, chúng ta không thể là kẻ thù của xã hội mãi được!” Phải chăng đến lúc n{o đó thự c sự sẽ có những ng{y như thế?
CUỘC SĂN LÙNG KALASNHICỐP Về đi săn v{ đi c}u có rấ t nhiều câu nói vui t ừ cổ xưa, tất cả c|c c}u nói đó đều trúng đích hơn nhiều so với các xạ thủ bắn các loại súng hiện đại nhất có kính ngắm, có thiết bị bắn đêm v{, v.v… Nhưng có một câu t ục ngữ tôi cho l{ hay hơn cả, ấy là c}u: “Săn nai thì đi v{o mùa thu v{ mùa đông, còn săn kẻ ngốc thì săn quanh năm”. Tất nhiên cũng có khi hai mùa n{y trùng nhau, điều đó xảy ra trong trườ ng hợp của tôi. Nhưng chẳng lẽ ta bắt đầu ngay câu chuyện t ừ một nốt nhạc buồn?… Vì rất nhiều lần vai trò c ủa tôi trong các ho ạt động hữu nghị mang tính ch ất t ự nguyện ấy, t ựu trung lại l{ để an ủi người d}n lương thiệ n. Thú thực chính tôi cũng thấ y xót xa lắm. Ta sẽ bỏ qua mất những năm th|ng tuổi thơ, c|i thờ i thật đẹp đẽ khi mà bạn ta chỉ ngón tay làm trời trong căn nh{ ta m{ cườ i th ả s ức, hay trong đ|m bạn bè t ụ t ập t ự do đùa vui cười đến vỡ bụng… Ta sẽ bỏ quên một mảng t ối trong đời tôi khi gà và thỏ rừng hầu như l{ nguồ n thực phẩm duy nhất nuôi sống cả một gia đình lớn nhà tôi. Ta sẽ bắt đầu t ừ những năm đầy hứa hẹn, khi tôi b ắt đầu sống “trên toa xe” v{ l{m việc trong phòng chính t ại đoạn đường sắt ở ga Matai thân thi ết ấy. Lần ấy, vào cuối thu, chúng tôi chu ẩn bị rất kỹ cho cuộc đi bắn chim bay di cư. Chúng tôi thuê m ột chiếc xe ngựa kéo và bốn người đến vùng hồ lớn có những bãi cói mọc. Người ta bảo r ằng vùng đó ngỗng nhiều đến n ỗi bay che kín c ả m ặt tr ời, vịt nhiều đến nỗi bay che kín c ả ngỗng… Chúng tôi dừng lại bên một con sông nhỏ không tên, chuẩn bị chỗ ngủ đêm v{ quyết định trinh sát tình hình xung quanh l ều cói của chúng tôi. Gió lạnh thổi rất khó chịu. Ở những chỗ nước nóng, yên tĩnh, nhữ ng lớp băng mỏng trong suốt đầu tiên đ~ xuất hi ện. C ứ đi tiếp, đi m~i trong b~i cói tôi ho{n to{n mất phương hướng. Xung quanh tôi quang c ảnh đơn điệu đến nỗi tôi có c ảm tưởng mình đi vòng quanh. V{ quả thế thật, tôi nhìn thấy vết ủng cao su của mình đ~ đi qua. Tôi đ|nh dấu ch ỗ mình đ~ đi qua bằ ng cách cắt mấy cây cói bu ộc túm vào cây cỏ lác, thế nhưng vẫn không tr|nh được con đường cũ vì chỗ thì nước đầy không đi đượ c, chỗ thì bãi cói quá dày không qua n ổi nên c ứ phải đi vòng. Rồi gọi, hú, b ắn báo hiệu cũng không nghe thấ y tiếng đ|p lại của các bạn tôi đi cùng. Sau đó mới biết họ cũng bị lạc trong b~i cói như tôi.
Tôi đ{nh quyết định táo bạo: cắt cói, nhóm lửa giết thời gian chờ s|ng. Nhưng ngay lúc đó như l{ có người n{o đó nhắc ngay: “L{m gì có diêm m{ nhóm lửa”. Thế là bèn nghĩ ra c|ch cắ t cói xếp th{nh đống trèo lên đấ y ngủ qua đêm. Rồi có thể đứng trên đó để dễ quan sát xung quanh. Dùng dao m ới c ắt được vài cây cói, tôi ch ợt hi ểu ra: ý tưởng này sẽ không thực hiện nổi. Cây cói cứng gần như c}y lau, cao gần hai đầu người, phải có rìu m ới chặt nổi, m{ tôi đ}u có rìu… Đạn dự trữ chỉ có ba viên mà th ời gian thì còn su ốt một đêm đầy nh ững bất trắc. Đi trong cói chỉ nhìn thấy một khoảng trời nhỏ xíu. Có thể chính trong nh ững trường hợp đ|ng sợ như thế n{y, người ta hay nói câu: h ồn vía lên chín t ầng m}y. Tôi đứng dậy giữa b~i cói, đơn độc như con diệ c giữa đầm lầy v{ suy nghĩ: Giờ ta phải làm gì?… Có lẽ phải bắt chước con diệc, kêu to lên để cho cả một vùng nghe thấy tiếng; nhưng vẫn không hy vọng có ai đó nghe thấy, mà chỉ để khuây khỏa cho riêng mình. Nhưng bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng súng t ừ xa v ọng lại. tôi bắn tr ả lời ngay. Tôi nóng lòng chờ. Tiếp t ục lại có tiếng súng ngày càng gần hơn, gần hơn. Cuố i cùng nghe thấy một loạt súng nổ l{m định hướng cho tôi thoát kh ỏi vùng đầm cói. Vượt qua vùng bãi cói tôi có c ảm gi|c mình như con thú hoang suốt đời sinh sống ở vùng này. Tay b ị đứt nhiều ch ỗ, mặt đỏ ửng vì bị c{o x}y x|t, nhưng tôi đang hứ ng khởi, chẳng để ý gì đến những việc vặt ấy! Tôi chỉ biết rằng, các bạn tôi đang ở đ}u đó gần đ}y lắm! Cuối cùng tôi vượt qua được bãi cỏ trống nhỏ trong rừng và nhận ra mùi khói d ễ chịu t ừ đống lửa các bạn tôi nhóm, lúc ấy cảm thấy mọi khó khăn đ~ lùi về sau… Không còn trong c ảnh l ạc như cũ nữa! Con lạch nhỏ đ~ ngăn c|ch chúng tôi l{m hai. Trong cảnh chiều t ối, m ặt nước con lạch trông đ|ng sợ: c ả m ột d ải đen thẳm đe dọa ta. Chúng tôi không nhìn th ấy nhau, nhưng nói chuyện vẫn nghe thấy tiếng. Các bạn đồng thanh hô lên bảo tôi lội qua lạch, nhưng chỉ riêng cái mặt nước đen ngòm kia đ~ l{m tôi đủ sợ r ồi – tôi vốn không biết bơi. Trong khi đó tôi vẫn tưởng tượ ng rằng con lạch s}n không đ|y. Thế nhưng không biết làm gì khác; sau m ột h ồi lưỡng l ự, tôi đ{nh liều lội xuống, nước sâu ngang ngực, rồi bỗng cảm thấy đôi ch}n đi ủng cứ nặng dần nặng dần và lún sâu xu ống bùn. Tôi sợ quá vội vã quay lên b ờ. Tôi không kêu mà gào to với các bạn “Th{ chết trên bờ còn hơn chìm trong bùn”. Cái lạnh ban đêm v{ quần |o ướ t làm tôi run lên c ầm cập và tôi lại xuống nước, chính trong nước lại ấm hơn trên bờ nhiều.
Các bạn quyết định dùng sợi d}y để kéo tôi qua l ạch. Nhưng không nghe theo lờ i khuyên của h ọ, v ừa l ội xu ống đến ch ỗ nước sâu tôi lại b ắt đầu s ợ, v ội th ả đầu dây ra ngay. Cuối cùng biết tôi không thể t ự sang được, m ột người trong số h ọ cưỡi ng ựa sang bờ bên tôi. Tôi không muốn rời chỗ nước nông v{ để cho ấm người cứ nhẩy lên nhẩy xuống m~i trong nước, thế là lập t ức b ị ch ửi r ủa thậm t ệ. Ngoài mặt tr ận sau này tôi không bị ai chửi, chỉ có m ột lần khi đã ở vùng hậu phương, bạn tôi, Đeikin, cũng đ~ chử i tôi. Nhưng lúc đó ông l{ cộng tác viên c ủa Tổng cục Ph|o binh!… Theo điề u lệnh thì có thể chấp nhận được. Thế còn đ}y lại là cái chú bé mi ệng còn hơi sửa mà lại dám chửi tôi? Thật khó khăn, người bạn mới giúp tôi leo lên lưng con ngựa cũng đang run lên bần bật vì rét và vì s ợ tôi, trong khi trên b ờ kia đang vang lên tiếng dọa dẫm chửi rủa đủ kiểu. Cuối cùng các b ạn giúp tôi c ởi bỏ quần |o ướt, mặc lại đồ khô và mỗi người đưa cho tôi một phần bánh mì c ủa mình.
Sau đó anh em rót cho tôi mộ t cốc rượu bắt uống cạn và chạy xung quanh đống lửa. Dáng vẻ tôi có lẽ thật hết sức buồn cười, nên các b ạn nửa nằm nửa ngồi trên đống cói vừa xem tôi bi ểu diễn điệu múa của thầy phù thủy vừa cười ầm ĩ, đến nỗi nghe thấy trên đầu tiếng kêu nặng nề và tiếng cánh vỗ của con vịt cuối cùng ròi t ổ, m{ trước đó chúng tôi chưa thể làm nó thức dậy. Trời rạng s|ng, nhưng chính |nh bình minh chờ đợi l}u n{y đ~ tự nó làm xấu xí đi vẻ đẹp của nó. Đấy là cảnh trở về của chúng tôi. Ba chàng trai tr ẻ ngồi trên xe ng ựa kéo, bỏ thõng chân ra ngoài, ch ạy lạch bạch sau xe la người thứ tư mặc quần áo không đúng cỡ, hai vai áo tr ễ xuống. Các bạn tôi nhất định bắt tôi phải chạy bộ suốt qu~ng đường và chỉ khi sắp vào đến làng thì mới cho ngồi vào xe. Nói gì thì nói ch ứ và thời gian đó chúng tôi đ~ l{ những thợ săn nổi tiếng khắp vùng không muốn biến cuộc đi săn về không thành một trò cười cho mọi người… dongadoan: Cuộc đi săn chó sói lầ n sau của tôi cũng trở thành kỷ niệm.Đ}u có phải cuộc săn thường, mà là cuộc săn có dùng tiếng lợn kêu nhử mồi.
Đầu đuôi c}u chuyện là thế này: một lần bên đống lửa đêm ngồi ch ờ sáng, một tay săn chó sói gi{ đời đ~ m|ch tôi c|ch đi săn n{y. Đầ u tiên anh ta bảo cho anh ta xem khẩu súng săn mới của tôi, đ}y l{ khẩu súng duy nhất m{ tôi có được khi nhận giải thưởng Xtalin. Xoay xoay kh ẩu súng trong tay, anh ta nói m ột các khinh r ẻ: “Không ăn thua” Tôi vội hỏi: “Sao lại thế” “Bởi vì – Anh ta nói v ẻ dạy đời – Cậu chưa nghe c}u chuyện n{y {?… Có mộ t thợ săn kia, vừa ra kh ỏi làng thì th ỏ mẹ bảo thỏ lớn: Này, con chạy đi coi thử xem nó đeo c|i gì ở vai? Th ỏ con chạy đi một lúc, rồi báo cho th ỏ mẹ: “mẹ ơi, nó đeo c|i… thế n{y n{y… thế n{y,… mới lắm, cứ s|ng lo|ng lên…” Thỏ mẹ liền nói: “Rồi, c|c con h~y chơi đùa thoả i mái, loại này chẳng bao giờ bắn trúng các con đ}u”. Sau đó lạ i có tay thợ săn thứ hai đi ra khỏ làng, thỏ mẹ liền sai thỏ lớn: Con lại ch ạy đi ngó xem”. Thỏ con về b|o c|o: “Mẹ ơi, cóc sợ, nó mang c|i đồ g ỗ, cũ ơi l{ cũ, chỗ thì buộc giằng sắt, chỗ thì buộc bằng dây, bằng giẻ. Mẹ nó liên nói: “E hèm, c|c con ơi h~y nhớ, đ}y l{ tay thợ săn thiện xạ đấy!” Chế diễu món quà t ặng, có thể coi như thế được chứ, chán chê rồi, anh ta tiếp t ục dạy khôn tôi:“Cậu chưa bao ghờ đi săn chó sói {?… Chưa hả? Cậu h~y đi thử mà xem. Việc bỏ đấy, vợ bỏ đấy… Úi d{!” Tôi ngạc nhiên cúi ngườ i xuống anh ta, nhưng anh ta cười nói: “Sói, nó không như cừ u, nó không thế. Cậu có c|i bóng đèn ch|y n{o sẵn trong nh{ không?… Nế u có t ớ sẽ dạy cách thổi: vu… vu… u! Cậu biết không, như thế là gọi chúng đến đấy. Có những con đến sát t ận nơi, cứ như l{ sờ được mõm nó ấy, chỉ việc bắn. Thế c ậu đi săn dùng lợ n con nhử bao giờ chưa? Đố với loại sói, không có th ứ nhạc nào ngọt ng{o hơn l{ tiế ng lợn kêu. Nếu vào mùa khi b ắt đầu có sương gi|, thì c|ch h{ng chục cây số nó vẫn nghe thấy. Nó bỏ cả lợn rừng mà chạy bổ đến nơi có tiế ng lợn con nhà kêu! Ch ỉ có cái là kiếm đ}u ra lợ n con, hả?”. Nói chung tôi đ~ ngấ m lời anh ta. Không sao, không sao, tôi nghĩ, lầ n sau gặp nhau trong lúc đi săn, tố i s ẽ hãnh diện nói với anh ta rằng: “Đ}y n{y, một ph|t ăn ngay, từ kh ẩu súng chẳng ra gì, b ỏ đi đấy! Lão luyện chưa, sói đ}y mới l{ sói. Trúng chưa! Tiếng lợn con nhử đấy.” Và sau m ột tuần, tôi đến trại nuôi lợn chìa c|i hóa đơn có đủ chữ ký cho các cô gái: “Đ}y nh|, trả tiền cho kế toán rồi nh|!” C|c cô thật h{o phóng!… Anh lấ y con nào? Chọn đi. Tôi hơi bố i r ối: “Tôi muốn tìm con nào to m ồm kêu hăng nhất”. Thế là m ột cô vung tay kho|i tr|; “Ôi, cuối cùng thì có người đến rước thằng Zurek rồi!” Họ lao vào túm l ấy một con vô phước vào đó. Đích thực là tiếng kêu c ủa nó dữ dội, v{ chói tai đến mức, tôi nghĩ l{ mình đ|ng lẽ phải mang theo cái bịt tai, giống như mỗi khi ra trường bắn. Tôi phải lấy xe nh{ m|y để đi đón chú Zurek to mồm về, thế l{ trên đường hầu như cả thành phố Igiepxk đều biết, nhìn theo xe, b ảo nhau:” Qu|i nhỉ chắc họ bắt lợn về mổ để đi săn chăng?
Đêm ấy, ở nh{ tôi chú Zurek đ~ trổ tài hết cỡ như thế nào, thật khó mà diễn đạt nổi. V{ đến qu| trưa hôm sau thì mọi ngườ i không ph ải đi tiễn m{ đồng loạt… đuổi tôi đi săn cho nhanh. Tôi x|ch túi đựng con Zurek không im m ồm l ấy m ột gi}y để vào thùng hàng và k ỳ lạ thay nó im b ặt. Lúc đầu tôi cũng thấ y mừng: ừ, mày hãy nghỉ lấy tí chút mà tao cũng muốn nghỉ. Nhưng khi đi đến chỗ săn, sau khi buộc chân, tôi th ả con Zurek ra, thì trông dáng vẻ của nó tôi ngờ ngợ… chẳng thấy kêu gì c ả! Nó khịt khịt c|i mũi dáng t ỉnh bơ, cứ như l{ chính nó, chư không phả i tôi bố trí cuộc gặp với sói và gi ờ đ}y đ~ ho{n to{n yên t}m; mọ i việc ổn thỏa, đến đúng thời gian. Tôi cũng phải nói thêm r ằng, khi đi tôi có dừng l ại ghé v{o người quen ở g ần m ột l{ng m{ hôm trước đ{n sói đ~ ho{nh h{nh, để kể về kế hoạch của mình, nghe xong câu chuyện, các bạn tôi dúi cho m ột một con chó con lạc và kheo, con này nó kêu phải nói tuyệt vời, không d ừng đến lấy một phút. Lúc đầu thì nó sủa hăng thật, nhưng lúc đến đ}y thì im bặ t, không một tiếng sủa!… Tôi cứ băn khoăn suy nghĩ m~i, hay l{ chúng đ~ cấu kết với nhau trong thùng h{ng để chống lại tôi? Trước đó tôi đ~ hình dung rõ r{ng buổ i hòa nh ạc đêm khuya do chúng biểu diễn, khúc song t ấu nhịp nhàng làm sao và vang xa r ộng khắp cả khu rừng xung quanh, th ế mà bây giờ chúng chỉ ng ửi nhau ra v ẻ thích thú c ứ như l{ trước đó chúng cùng số ng chung trong m ột m|i nh{, cùng ăn chung một chậu, b|t vì lý do gì đó phả i xa nhau, và giờ lại gặp nhau. Trong khi tôi dang ch ỉnh cái vòng cổ cho con chó con thì chú Zurek c ứ lấy mõm hích vào chiếc ủng của tôi rồi lại ngửi cửa chiếc xe “pôbetđa”: ra ý bảo: cho vào xe chứ?… Sắp đi chưa?… hay còn ở đ}y? Cuối cùng thì tôi quy ết định cho mồi nhử sống vào bụi cây, giong dây vào trong xe, hạ kính cửa nh ỏ, các nòng súng qua c ửa v{ chăm chú lắng nghe. … Chúng ng|y nghe mới đều làm sao! Thật im ắng!
Ban đầu tôi còn khe khe kh ẽ gi ật d}y, c|c “bạn giúp việc” chẳng đ|p lại gì. Tôi bắt đầu giật m ạnh, rồi kéo, cả hai con lê sền sệt trên cỏ lạnh cóng, nhưng không con n{o t ỉnh dậy. Nhiều năm sau tôi vẫn trăn trở với câu hỏi bí ẩn này: Sao con Zurek lại kiên trì yên lặng? Sao con chó con l ại ngủ say sưa đến thế?… M~i rồi tôi mới hiểu ra!
Tôi đ~ có dịp k ể về chuyện tôi đưa chiếc “pôbetđa” từ M|txcơva về Igiepxk, tôi đ~ phải ng ủ đêm dọc đường trong một ngôi nhà của người nôn dân. Những con lợn c ủa nhà chủ ra vẻ rất thích thú vật thể lạ mạ kền sáng láng và mầu sơn mới tinh, nên su ốt
đêm chúng chen chúc nhau quanh chiế c xe, thi nhau k ỳ cọ người vào xe rồi thả sức hít, ngửi vẻ thích thú, bi ết ơn… Sau đó dù tôi có cọ rửa chiếc xe thế n{o đi nữa, có lau chìu ghế ngồi thế n{o đi nữa thì cái mùi hôi c ủa lợn vẫn còn giữ mãi trong nhiều năm, thế chả có gì lạ cả: có thể con Zurek đ~ rất thích thú khi ở trong chiếc “pôbetđa” của tôi?… Mùi th}n thuộc y hệt như ở trại, thế mà lại sạch, khô, ấm được ru đung đưa nhè nhẹ – cuộc sống như thế còn đòi hỏi gì? Rồi lại có cả chó, bảo vệ riêng đi cùng. Giật, kéo m~i tôi đ}m ch|n, ngủ như chết lúc nào không hay. Th ời k ỳ ấy chúng tôi làm việc t ừ 16 đến 18 tiếng một ngày, rất ít nghỉ ngơi nên tôi mới bảy ra trò đi săn sói để cho tâm hồn được chút thảnh thơi. Tôi t ỉnh dậy vì có ai đó lay lay vai tôi: “N{y ông bạn. Ông bạn! Ông đem b|n hay mua con lợn con đấy?”. May m{ khẩu súng đ~ tự trượt xuống dưới ch}n. “Tôi mua!” – Tôi nói. Ch ỉ đến lúc này tôi m ới nhìn thấy gần b ờ gi ậu có đến một nửa l{ng đang tụ t ập. người thì đứng, người thì t ựa ngực vào các bờ cỏ khô, người thì ch ống khuỷu tay, còn trẻ con thì lâp ló gi ữa cá bờ cỏ khô…
Đột nhiên con lợn con của tôi bắt đầu kêu rống lên tuyệt v ọng. Chắc nó hiểu r ằng đ~ bỏ qua mất cơ hội và giờ nó phải về trại lợn của nông trường? Con chó con được tháo dây ch ạy vòng quanh rồi dừng lại và bắt đầu sủa ra bốn phía… Đấy, đấy bản song t ấu chờ đợi bấy lâu nay mới bắt đầu! Các cậu bé bên bờ dậu có tình bịt hai tai, những người phụ nữ thì cau m ặt và lắc đầu v{ người nông d}n đ|nh thứ c tôi thì bắt đầu hét to lên: “N{y ông bạ n, ông có bắt chúng đi không? Hay để tôi phải giúp ông?!” Tôi dúi con lợn vào cái bao t ải, quẳng vào thùng hàng, còn con chó thì túm không được cuối cùng tôi lao vào xe, n ổ m|y. Con đường quá xấu, không thể tăng tốc độ nhanh được, con chó v ừa chạy đuổi theo chiếc xe “pôbetđa” vừa sủa ngậu xị, chú Zurek cũng không kém, kêu đ|p lại liên t ục. Thế là tôi phải chịu đựng cảnh chia tay bất t ận của chúng…
Sau đó l{ cuộc đi săn gấu, trong c|nh đồng kiều mạch. Tôi tin ch ắc rằng không chỉ mình tôi cảm thấy t ội lỗi nạng nề và không yên lòng, khi c|i hăng m|u đ~ qua đi, đế n lúc ta lột da con gấu bất hạnh bắn được, hiện ra một cơ thể, trông giống như con người! Không phải vô cớ m{ người dân Xibêri và phương Bắc có một nghi lễ đặc biệt vỗ về an ủi v{ đ|nh lừa linh hồn con gấu bị giết!
Nhưng điều đó đ~ xảy ra, thì đ~ q ua rồi.
Chúng tôi cùng đi với ông bạn Xôcôlốp, giờ đ~ l{ tiến sĩ khoa họ c, còn hồi đó chỉ mới là phó tiến sĩ – thú y. Cho dù ông có công tác ở lĩnh vực n{o đi nữa; hoạt động khoa học hay giảng dạy ho ặc là quan chức nh{ nước thì ông vẫn l{ người say mê đi săn v{ l{ người hi ểu bi ết nhất vùng: săn ở đ}u, săn thú gì. V{o bao giờ thì có k ết qu ả nhất. Vào thời gian đó, giữa chúng tôi hình như có sự phân công nhiệm vụ và t ự nhiên: tôi ch ịu trách nhi ệm súng v{ xe. Còn ông thì đả m bảo khâu cung c ấp thông tin, và bắn thật chuẩn, thường là phát bắn quyết định. Năm ấy, ông báo cho chúng tôi bi ết, không xa Igiepxk có m ột khu ruộng kiều mạch lớn trong rừng. Người ta gieo khá mu ộn, vào khoảng giữa mùa hè, nhưng giờ thì đúng lúc đang chín, đúng lúc c|c chú gấu ch ờ mong đến để t{n ph| đùa nghịch, đúng lúc chúng thay lông, ho ạt động tích cực. Chẳng còn gì hơn nữa vào lúc này: C ần ph ải lên đường thôi! Chúng tôi đi cùng với một người săn gấu có kinh nghi ệm nữa, đến nơi trờ i còn sáng, kịp làm một cái lều bằng cành thông cạnh ruộng lúa, chui v{o đó v{ chờ . Có thể hi ểu được t ại sao người ta khao kh|t đi săn đế n th ế, n ếu ta được nhìn thấy cảnh tượng vầng trăng lưỡi liềm m ầu v{ng đang từ t ừ trôi trên cánh r ừng đen thẳm, và cả khu rừng như một |nh đồng ấm |p được sưởi ấm suốt ngày, rồi một l{n sương mỏng r ụt rè bốc lên va chẳng bao lâu khu r ừng lại chìm trong l ớp sương xanh, trong suốt mờ ảo… M{ đ}u có phải rõi việc m{ ta đến đ}y để ngắm cảnh này. Một con gấu đ~ đến g ần chỗ chúng tôi, và ti ến v{o ăn lúa. C|i đầu đen củ a nó quay sang bên này, r ồi lại quay sang bên kia, th ỉnh thoảng hất nhẹ lên, tiếng cây lúa kêu xào xạc, lào rào, ti ếng nuốt ừng ực ngon l{nh… Đúng lúc ấ y một tiếng súng nổ vang. Con gấu ngã chúi xu ống, nhưng lậ p t ức lại nh ổm dậy và lao xé qua nh ững b ụi cây gần đ}y. Tất cả ba chúng tôi ch ậm r~i đi theo nó từng bước, trông ch ừng bóng cây và gốc c}y. “Nhìn thấy chưa? – B ạn tôi thì thầm – C ậu ti ến g ần và bắn, còn mình sẽ b ảo hiểm…”. Nhưng chẳng cần đến thế nữa. Bộ lông gấu đ~ kịp thay và mọc d{y, ướt đẫm sương đêm. Chúng tôi cố lắm mới kéo lê nó t ới được gần xe. Theo t ục lệ đi săn, chúng tôi ngồ i lên nó day nhẹ để sau đó lột da cho dễ. Nhà khoa h ọc của chúng tôi, người b ạn tôi vốn quen với việc phân loại thú, vui sướng như trẻ con: “Chúa tể của rừng xanh đấy nhé”. Tôi đ|p lại “V}ng, chúa t ể của rừng xanh…”. Trời còn sớm, chúng tôi không ng ủ lại trong rừng mà về nhà. Về t ới nhà tôi b ảo vợ và con tôi hãy xu ống nhà mà xem con gấu th ật dưới xe, nhưng vợ tôi chỉ bảo: “Gì thế hả ông? Làm gì có chuy ện ấy. Gấu n{o? Thôi h~y đi m{ ngủ !”
Cả những người đến xem chúng tôi m ổ th ịt gấu ở b ờ sông cũng không tin v{o mắ t mình nữa. Một người đ{n ông đứng tuổi sốt sắng hơn cả: “Có thật không? Gấu thật chứ?… Phải thì xin các ông cái vu ốt nhỏ có được không?”. Bạn tôi mặc dù không mu ốn l{m “khuyết” bộ da gấu nhưng vẫn rộng lòng lấy cái vuốt thứ mười t ặng ông ta. Một tuần sau chiếc vu ốt n{y đ~ được để gọn trong phong bì v{ đặt lên b{n bí thư t ỉnh ủy, trước m ặt chúng tôi, đang sửng s ốt: “Đ}y l{ c|i gì thế?… Mặc dù các anh quả quyết không đi săn trong phạm vi lãnh thổ của thành phố, nhưng thanh tra nh}n dân, một người cộng sản gi{, đ~ gửi cho chúng tôi vật chứng cụ thể này, nên chúng tôi phải tin ông ta”.
[, ra chính người van nài xin cái vu ốt, l{ người “b|o thù của nh}n d}n”! Giờ mới biết ông ta xin vuốt để làm gì! Bí thư tỉnh ủy gõ gõ đầu ngón tay xuống chiếc b{n, trên đó có chiếc vuốt m{ người “b|o thù của nh}n d}n” đ~ n{i xin bằng đượ c với mục đích phản bội. Chẳng biết sự việc sẽ kết thúc ra sao, nếu không có tin bào r ằng, có vị kh|ch quý l{ bí thư tỉnh ủy t ỉnh láng giềng Kirôp đang ở phòng chờ… Khi ông ta v{o, chúng tôi đ~ ôm hôn nhau như những người bạn t ốt, và chỉ cần vài lời ông đ~ hiểu ý nghĩa củ a việc đ~ xảy ra. Ông nháy nháy mắt v ới tôi một cách thân thi ện, r ồi nói: “Mikhain Timôphêêvích sao lại vậy? Cậu sai lầm to rồi đấy!… Nếu cậu gọi điện cho mình, thì mình đ~ chuẩ n bị cho cậu cái giấy phép đi săn trong to{n tỉnh. Phải giữ lại danh dự chứ…” Vài ngày sau, qu ả nhiên tôi nh ận được giấy phép t ừ người bí thư tỉ nh ủy Kirốp, nhưng không thể sử dụng nó: v{ tôi đ~ có kế hoạch cải tiến mẫu súng gấp, nên không đi săn được. Độ v{i năm sau tôi mới hiểu được bí mật của việc xử lý quá nghiêm khắc của bí thư tỉnh ủy đối với chúng tôi h ồi đó. Người bật mí chính l{ bí thư l|ng giềng t ỉnh Kirốp, khi chúng tôi g ặp nhau ở M|txcơva. “Thế n{o đồng chí Kalasnhicốp? – Ông ta hỏi đùa tôi trong giờ ngh ỉ gi ải lao c ủa m ột bu ổi g ặp m ặt quan trọng n{o đó – Các anh cho r ằng ruộng lúa kiều mạch gieo chậm {? Không đ}u, chúng tôi gieo đúng thời gian đấ y! Mọi việc đều đ~ tính để cho nó kịp chín khi bắt đầu lạnh! Lúc ấy chúng tôi đợi khách t ừ M|txcơva đến vào mùa thu – nên phải gieo vào giữa mùa hè. Kh|ch “đặc bi ệt”, thích đi săn, rất thích đi săn. Điề u chính y ếu là ở chỗ đấy… Ly rượu đang giữ trong tay. Còn ông thì ch ẳng hỏi “hỏi cha hỏi mẹ” gì. Mikhain Timôphêêvích! “Cha mẹ” phải được tôn trọng chứ. Kể cả những người nổi tiếng như ông cũng thế…” Lạy trời, trên đời có những người t ốt, khi nhớ lại thật thú vị!
Sau đó còn có một cu ộc đi săn nữa mà tôi không bao giờ quên được. L ần đi săn ấ y
ở xa nhà, xa Igiepxk.
Khu rừng rậm Bôlavêgia ngày ấy thanh danh ch ỉ có một, rõ ràng và trong sáng không lắt léo như ng{y nay. Hôm ấy vừa mới nghe thông b|o trên đ{i rằng Piôtr Mirônôvich Maserôp đ~ từ trần do bị tai nạn ôtô thì lúc đó tôi cũng nhận ngay được bức điện của Giênhia
Klimentrncô “xin h~y bay đến”.
Tôi hiểu c ả: trong hai ch ữ “xin h~y” ấy là biểu hi ện c ủa c ả m ột con người t ốt b ụng nhất và lịch lãm nhất, ấy là Giênhia. Tôi hi ểu nỗi đau buồn chung của Bêlarux và thậm chí cả bí mật bao trùm lên tai n ạn rất kỳ lạ n{y… Chi tiết của vụ tai nạn đó tôi không muốn nói t ới cũng như không tìm c|ch bổ sung thêm điều gì, vì chẳng cần thế thì mọi chuyển xảy ra đ~ qu| rõ r{ng rồ i. Thời đó người ta cười mỉa về câu chuyện mọt kỹ sư nông học vĩ đại đ~ có biệ t t{i “từ Miền đất nhỏ mà thu hoạch được m ột mùa bội thu”. Một thời đ~ thịnh hành những người anh hùng ch}n chính không đượ c tôn vinh. Riêng tiếng đồn v ề Maserốp ngay thẳng, nhiệt tình, dù ở cương vị cao nhưng h{ng ng{y vẫn có những người bạn cũ cùng hoạt động trong phong tr{o du kích đến thăm đ~ vượ t khỏi biên giới của nước Bêlarux nhỏ bé. - Tôi sẽ đi săn cùng ông, – Ghênhia nói v ới tôi một ng{y sau đ|m t|ng – Ch ả lẽ ông về mà lại không ghé qua r ừng Bêlavêgia chúng tôi? Maser ốp là một người am hiểu, tôi nghĩ rằng ông sẽ tha thứ cho chúng ta điều này. Thế l{ chúng tôi đ~ ở trong rừng, tôi nhìn v{o đ|m bụ i cây màu hung vàng phía trước… Giênhia vẫn như mọ i không không nói gì, không h ỏi th ẳng v ề vấn đề này mà t ừ lúc n{o không hay đ~ để bàn tay một cách thân mật lên vai tôi; th ầm bảo: Misa, đừng phụ lòng tin, chính b ạn cũng biết rằng: anh em sẽ rất vui lòng khi thấy Kalasnhicốp chứng minh được rằng: Con nai không đi một mình! Hoặc là con nó ngẫu nhiên t ụt lại sau một chút, hoặc là con mẹ c ố ý đi vượt lên để ngó xung quanh xem có gì nguy hiểm không?
Tôi để h ờ ngón tay lên cò súng và b ỗng nhiên y như dự đo|n, con nai con đ~ theo kịp mẹ, xu ất hiện ở phía bên!… Con mẹ hơi quay đầu lại như muốn x|ch đị nh chính xác rằng con nó đ~ theo kị p và hai m ẹ con cùng đi hướng về phía khẩu súng. Một ý nghĩ xo|y trong đầu tôi: Nếu có ai đó lại cho rằng tôi ngủ thiếp đi v{ để xổng con mồi? V{ chính ngườ i ấy đang ngắm súng v{o chúng… Thế l{ để cướp dịp, tôi nhắc súng nòng hướ ng lên trời cho nổ luôn cả hai nòng.
Con nai mẹ quay lại thật nhanh!… Tôi không kịp nhìn xem con nai con bi ến đi đ}u? Hay là con nai m ẹ, dù cho sợ hết hốn, vẫn còn kịp che ch ở nó trốn phía bên tôi? Giênhia ch ạy đến cách bên phải tôi một ít, trong tay không có súng. Ông giơ tay lên về phía tôi nói to: - Tôi biết mà, Misa, tôi bi ết mà!
Tôi để khẩu súng dựa vào gốc cây, chúng tôi ôm ch ặt lấy nhau dụi đầu vào vai nhau… Ghênhia cứ lặp đi lặp lại mãi một c}u “Tôi biết mà, Misa, tôi bi ết m{!” Từ các hàng cây, t ừ các bụi r ậm nh ững người tham gia cu ộc săn bước ra t ừ các vị trí khác nhau. H ọ nhìn chúng tôi quay đi, dụi m ắt.. “Tôi biết, tôi biết” – Giênhia nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu l ần. Tôi nghĩ cần phải nói vói ông m ột lời n{o đó, nhưng tôi rất sợ những lời nói to ph|t v{o lúc n{y, nhưng vì đ}y l{ một sự thật đau buồn về đất nước Bêlarux c ủa ông: - Vì ở đ}y qu| nhiều trẻ mồ côi, Giênhia ạ!- Tôi gắng gượng thốt qua giọt nước mắt vui sướng – T ừ h ồi chiến tranh, nên h~y để con nai con sống yên ổn, h~y để con mẹ
nó được vui sướng!”
Cuộc đi săn cuối cùng mà tôi mu ốn kể lại đ~ được chuẩn bị rất l}u… Thời gian cuộc đi săn định vào cuối th|ng 11 đầu th|ng 12 nhưng công việc chuẩn bị bắt đầu t ừ mùa hè. Đầu tiên là tiếng chuông điện thoại liên t ỉnh gọi về t ừ cơ quan đại diện của một phụ nữ nghe rất dễ chịu, h ỏi tôi về cơ quan đại diện của hãng BBC ở M|txcơva: tiếng nhỏ nhẹ của một phụ nữ nghe rất dễ chịu, hỏi tôi về kế hoạch công việc vào cuối mùa thu. Người phụ nữ tiếp chuyện, nói tiếng Nga rành r ẽ: - Thưa ng{i Kalasnhicốp, xin đượ c gọi ngài theo tên – phụ danh như thế nào ạ? Vâng, xin c ảm ơn ng{i. Thế này ạ, thưa ng{i Mikhain Timôphêêích, không chỉ chúng tôi mà mọi người đều biết ngài là một người say mê đi săn. Có phả i không ạ? - Tôi bỗng nhớ câu ngạn ngữ thời bố tôi vẫn nói: “Con thỏ nhát là th ế mà vẫn đi săn lùng cải bắp!” - Rất tuyệt, câu này ngài sẽ nói khi quay phim nhé! - Phim n{o? Quay cho ai v{ quay để làm gì?
Người phụ nữ trả lời: - Quay cho người Anh. Một s ố người có tên tu ổi, muốn quay một cu ốn phim video với c|i tên đại kh|i l{ “Nh{ thiế t kế Kalasnhicốp đi săn”… Đại loại l{ như thế. Mục
đích l{ nhằm t ạo hấp dẫn cho câu chuyện kể về một trong những nhà sáng chế lớn nhất của thế kỷ hai mươi; ông cũng l{ một con ngườ i không có gì khác l ại. Có phải thế không ạ? Theo tôi hi ểu, ông cũng không có gì nói dối. B ởi vì chính ông v ừa mới nói rằng ông đích thực l{ người thích đi săn. - Tôi không th ể trả lời được rằng, tôi không thích đi săn. Chỉ riêng hai ti ếng “đi săn” đ~ bao h{m bao nhiêu l{ ý nghĩa! Chẳ ng phải vô cớ m{ người Nga nói r ằng thiếu thú vui săn bắn con ngườ i hóa thành đần độn. - Ngài nói về những v}n đề ngày thật tuyệt vời! – Người phụ nữ thán phục. Bà ta hiểu tôi rất sâu sắc, rất chân thực v{ cũng rất Nga. Có thể, chưa có ai hiể u tôi sâu sắc như thế bao giờ? - Họ đang tập trung! – Người phụ nữ gọi điện cho tôi l ần thứ hai, gi ờ đ~ th{nh người quen, thông báo cho tôi bi ết. Tôi thử t ỏ ra khó chịu: - Nhưng chưa có sự đồng ý của tôi. - Vâng, – Bà ta nói rất mềm mỏng, – V}ng, nhưng người Anh vẫn hy vọng vào sự mến khách truyền thống của người Nga! Cuối cùng thì truy ền thống cũ đ~ thắng thế… Nhưng nhóm quay phim trang bị những thiết bị nhắc không nổi, thế thì làm sao họ đi được trong rừng mau đông tuyết phủ. Nhóm có ba phụ nữ, kể cả người tôi quen t ừ đầu ở M|txcơva, v{ những nam giới dáng không kh ỏe l ắm. Chia đều m ỗi người mang ít hay sao? V ả lại sẽ đi săn kiểu gì, khi trên người lỉnh kỉnh hòm xiểng, chân chống? Phải nói rằng vào lúc này m ỗi người chúng tôi đ~ kịp phô diễn trước ống kính, và đ~ bắt đầu cuốn hút vào cu ộc chơi v{ muốn hay không muốn cũng đều lo lắng đến kết qu ả c ủa xí nghiệp l{m phim… Sau n{y trong phim không có nhữ ng c ảnh ban đầu chúng tôi ngồi trước ống kính, cảnh c|c ch{ng “Tartaren từ Igiepxk tán chuy ện huyên thuyên… tất cả các cảnh đó chỉ l{ để làm quen với người Anh, v ới ống kính. Việc b ắn nai t ừ trên xe chúng tôi coi là không x ứng với chúng tôi. Ban đầ u h ọ còn giải thích nhẹ nh{ng, sau đó c{ng kiên trì v{ mạ nh mẽ hơn.
Chúng tôi đến chỗ săn trên mấy chiếc xe con, sau đó tất cả chuyển sang chiếc xe t ải chạy mọi địa hình.
Vị trí săn l{ khu rừng liễu hoàn diệp, nơi nai thường ở, hai bên nơi rậm, nơi thưa. Valentin Vlađimiarôvích cố vấn chính của chúng tôi tin r ằng nai sẽ đợi chúng tôi ở đ}y. V{ bắt đầu quay cảnh quay: chúng tôi ngó nghiêng xung quanh như l{ đang đi tìm con thú. Tôi hiểu ngay rằng người Anh thích chi ếc |o da lông cũ của tôi: ống kính của họ không rời chiếc |o, đặc t ả t ừng chi tiết một, cứ như l{ để sau đó ở vùng “Albiôn sương mù” sẽ cắt may những chiếc áo y h ệt như vậy, “kiểu Kalasnhic ốp”. Thỉnh thoảng tôi nghĩ, c|i mũ lông r|i c| n}u m{ cố vấn chính chúng tôi đội sẽ c ạnh tranh xứng đ|ng với chiếc áo của tôi. Chiếc mũ mới đến cả trong thành phố cũng không thấy có! Thế nhưng người Anh lại không quan t}m đến vật mới. Họ tiếp t ục quay chiếc áo kỹ đến nỗi tôi nghĩ: Có khi chỉ cần cho mỗi chiếc |o đi săn?… Còn bản thân thì ngồi nh{ để làm những việc không thể trì ho~n được nữa. Không sao cả, dù cho nó cũ, có thủng lỗ chỗ, có vết ố, có đứt cúc còn c ụm chỉ trắng đấy, không sao! Thế là chiếc |o lông cũ đ~ “hạ g ục” những nhà báo Anh? Khéo l ại h ạ gục cả con nai? Chúng tôi phát hiện thấy con nai cái già khi tr ời đ~ chạng vạng t ối, ai đó đ~ đậ p đập v{o ca bin để cho xe d ừng l ại. Theo yêu c ầu c ủa khách, tôi b ắn đầu tiên. Con nai c|i ng~ đổ xuống lớp tuyết dày. Lập t ức mọi người tíu tít b ắt tay vào việc, chúng tôi leo nhanh xuống xe đỡ các thiết bị cồng k ềnh cho kh|ch, “tiếp đất” an to{n xong mọi người ti ến nhanh vào trong r ừng liễu. con nai n ằm đấy, đầu hơi nghế ch, ráng sức để đứng dậy, Valentin Vlađimiarôvích gọi Anatôli – người l|i xe “công vụ” – của tôi đi đầu tiên lại rồi bảo: - Này Tôlia, c ậu kết thúc đi để cho nó khỏi vật v~ đau khổ… – Mikhain Timôphêêvích ti ện hơn! – Tôilia đ|p lại – Ông ấy ở xa hơn nhưng không vướng các bụi cây!.
Người Anh đương nhiên cũng hiểu chúng tôi nói gì bèn kêu tôi đằ ng sau: - Ngài Kalasnhic ốp! Ngài Kalasnhic ốp! Cả giọng phụ nữ nhẹ nhàng tuyệt trần cũng vang theo: “Mikhain Timôphêêvích
h~y ra tay đi!”
Biết ngã ở đ}u m{ lót rơm trướ c.
Nhưng rồi tôi đ~ bắn. Nói gì thì nói đ}y l{ luậ t: phải giết chết hẳn con thú bị thương. Đó l{ một kiểu thương xót mang tính t{n khố c của ngươi thợ săn.
Sẽ không vô ích nếu tôi cố gắng giải thích những điều n{y! Đó l{ kiểu tính trướ c con thú bắn được: ta giết cho nó hết hẳn, khỏi giãy giụa, coi như ta bắn đượ c một con nữa tính vào sổ, sau đó mới thực hiện trong thực t ế, đó l{ c|ch tính của người Nga. - Con nai không còn răng! – Anatôli người ch ạy đến gần con nai đầ u tiên thốt lên – Chúng ta bắn được con nai gi{… Về sau tôi nói với Anatôli: - Ma xui c ậu kêu toáng lên th ế à! – Nhưng cũng chính với câu hỏi y h ệt như thế, có thể đặt ra với chính bản thân tôi: – Ma xui mày giết hẳn con thú à?
Nhưng tất cả những điều này lại lập lại mấy th|ng sau đó, khi chúng tôi, nhữ ng người th ợ săn hạng bét t ụ t ập nhau lại quanh chiếc tivi để quay lại bộ phim đ~ chiếu trên màn ảnh thế giới mà nhân vật trong đó, lại l{ người đượ c xem cuối cùng… V{ ta lại được nghe cái câu không ch ỉ chối tai m{ còn xé tim “chúng ta giế t chết con nai gi{”. Còn khi đó, ngay đầu mùa đông tất cả mọi việc đều tuyệt vời: mọi người ngồi quây quần thân mật quanh chiếc bàn lớn ở nh{ tôi, chúng tôi đ~i kh|ch món lưỡ i, môi của “nai gi{”, còn gan x{o với táo, rồi món thịt băm viên, mọi ngườ i nâng cốc chúc mừng cuộc đi săn th{nh công, v{ chúc cho sự hồng vinh của hai nước, chúc cho sự hiểu biết lẫn nhau mà không cần biết tiếng. -Món lưỡi đ~ xích gầ n nhau lại! – M ột người Anh cứ nh ắc l ại m~i c}u nói đùa ấy – V{ cũng như mọi khi, chúc cho tình h ữu nghị, hòa bình trên toàn th ế giới, chúc cho Igiepxk, chỉ ch ế t ạo to{n m|y săn v{ chỉ nghe thấy ti ếng súng trong những khu rừng sâu – t ất nhiên là có gi ấy phép – và chúc cho những tiếng súng ấy không chia cắt con người mà hợp nhất như l{ chúng ta hợp nhất bên chiếc bàn nhiều món sang trọng
n{y…
Những người Anh không rời chiếc Kamera. Có thể t ất cả những cảnh quay này, kèm theo nh ững lời nói hữu nghị, những nụ cười thắm thiết vẫn còn trong kho lưu trữ của đ{i BBC v{ biết đ}u sẽ có lúc xuất hiện trên màn hình ti vi. Những gi mà chúng ta thấy trên màn hình có khác m ột ít so với kế hoạch mà các nhà báo Anh tuyên b ố trước khi bắt đầu vào việc… Đầu tiên trên màn hình xu ất hi ện các cảnh quay ở Apganixtan… Trong một thung lũng hẹ p quân phiến loạn bắn súng m|y “của tôi” v{o đo{n xe ôtô chúng ta v{ mộ t phần chiến sĩ ta chết t ại chỗ, phần còn lại bị bắt l{m tù binh, tay giơ lên trời, đ ón họ là các vệ binh trong tay cũng l{ c|c
khẩu “Kalasnhicốp”… Còn chính Kalasnhicốp v{o lúc đó bắt đầu đi săn: mặ c chiếc áo
da lông r|ch, đứt cúc, đầu đội mũ lông chiến sĩ…
Lại có các cảnh quay chiến tranh: Cảnh xử bắn dã man các con trai ở Nicaragoa, hàng đống th}y người, tiếng rên rỉ, tiếng kêu khóc…
… V{ Kalasnhicốp trong chiếc áo da lông rách xu ất hiện,có lẽ tượng trưng cho mức sống nguyên sơ, đang chờ đợi t ất cả những người còn lại trên tr|i đất và nếu “sự nghiệp Kalasnhic ốp” chiến thắng… Kalasnhicốp, ánh mắt tinh tường nhìn vào cảnh tượng hoàng hôn chạng vạng: xem có con thú nào thoáng hi ện ra không? Lại có cảnh chiến tranh đẫm máu. Lần này là ở Nam Phi, và ti ếp sau đó l{ cảnh “đi săn trong hòa bình”. To{n l{ nhữ ng cảnh thực, thật chi tiết: c|i đầu rơi sau khi bị bắn, tiếng người chạy lạo xạo trong tuyết, lúc choạng vạng, tiếng người thở nặng nhọc, và tiếng kêu của Anatôli: “Nó không có răng! Chúng ta giế t phải con nai gi{!” Phải chăng bọn giết người biết thương xót dù chỉ một người? Phải chăng chính Kalasnhicốp thương xót lấy một ai đó? Tại sao ông tr ời lại t ạo ra con người theo mẫu của mình, dạng như Kalasnhicốp để thiết kế ra một vật tàn nhẫn: khẩu tiểu liên. Kia hãy xem: những bà già, những phụ nữ, trẻ con đang khóc trên khắ p thế gian này! Chúng tôi quấn l ại cu ộn băng, xem lạ i l ần n ữa, l ần n ữa vì sợ có thể b ỏ sót chỗ nào
đó chăng?… Có thể chưa hiểu điều gì đó chăng?
Tôi lại nhớ đến người bạn quá cố của tôi, tiến sĩ Izel, một lần t ại Mỹ ông đ~ che chở cho tôi thoát khỏi đ|m quay phim chụp ảnh bám chặt lấy tôi quá m ức. Lúc đầu tôi không hiểu có việc gì xảy ra với ông: đang từ một người lịch lãm bậc nh ất b ỗng chốc đùng đùng nổi giận, gần như nổi khùng lên. Sau khi đ|m nh{ b|o đ~ đi xa, ông xin lỗ i tôi và giải thích nhẹ nhàng: – Mikhain, tôi bi ết t ừ lâu rằng, ông hiểu r ất rõ rừng Nga, rừng Taiga Xibêri và nh ững quy luật khắc nghiệt của nó. Nhưng ở quanh chúng ta có những rừng rậm, trong đó không có mộ t lu ật nào, ông bạn thân mến chân thành của tôi ạ. Thế nên, tôi không mu ốn để bạn phải đối mặt một mình với bọn thú dữ, bản năng chính duy nhất của chúng là: moi gan, m ổ ruột.
“VỊ TƯỚNG GIÀ ĐẦ U B ẠC V ẪN CÀY VÀ CÀY…” Trên đường t ừ M|txcơva về Igiepxk chạy quac các cánh rừng có một ga nhỏ với cái tên thật dễ thương: Vecôpca. Ga không lớn, nhưng khi đế n gần bỗng náo nhiệt hẳn lên và những người có kinh nghiệm truyền lại cho người mới: hãy rút ví ra, chuẩn b ị s ẵn ti ền. Ở dây dù không mu ốn, nhưng rồi v ẫn ph ải cho… Vì sao? Không xa đ}y l{ xí nghiệp thủy tinh pha lê Gux. Đ~ l}u rồi công nh}n không có lương phả i nhận thay bằng sản phẩm và thế l{ mang ra đ}y… Chút nữ a ta sẽ thấy! Quang cảnh ngoài cửa sổ toa t ầu chưa từng có bao giờ: sân ga chật cứng những người trong tay lấp l|nh đồ pha lê và thủy tinh. Tôi thì không thi ếu một thứ gì! Lọ hoa các ki ểu, các cỡ khác nhau; bìn h đựng nước, các loại lọ có khắc mức nước, các loại cốc, ly để trong các hộp các tông, hay k ẹp giữa c|c ngón tay đĩa đự ng thức ăn, đế cắm nến, cốc v{ đèn thở, con gà trống, con công, c|c chùm đèn treo, lọ hoa để sàn nh{… Tất cả các góc c ạnh đều được khoe ra, t ất cả đèn s|ng lấp lóa, tiếng kêu leng keng hòa trong tiếng rao tuyệt vọng của phụ nữ: “B|c ơi, b|c mua hộ đi, rẻ lắm mà, chúng ch|u đ~ một năm rồi không biết đồng tiền là gì, lấy đ}u ra tiền để mua bánh mỳ cho c|c ch|u, n{o b|c, mua cho ch|u nhé!…” V{ những cặp mắt phụ nữ bỗng sáng rực lên hơn cả pha lê bởi những giọt lệ rưng rưng… Một năm trước, qua ga Vec ốpca tôi có xu ống và mua ngay m ột l ọ hoa nhỏ của một người phụ nữ có tuổi, không mặc cả v{ cũng không nhìn xung quanh. B{ ta đi ra xa cất tiền và thở dài nhẹ nhõm. - B{ có hay đến đ}y b|n không? – Tôi hỏi. Bà ta trả lời: - Biết làm thế nào? Giờ người ta không đuổi, thế là còn t ốt, chắc người ta cũng hiểu, n ếu không để chúng tôi bán thì chúng tôi s ẽ ch ết. Trước kia ấy à, t ầu m ột phía, còn phía kia là công an c ầm dùi cui trong tay… Ôi, người ta đ~ đuổi chúng tôi như thế nào, ông có biết không! Mọi người vứt bỏ hết, lấy tay che đầu, chạy… N{y ông thử ghé nhìn mà xem! – Bà ta cúi xu ống chỉ tay vào khe h ở giữa các t ấm bê tông lát sân ga, dưới đó đầy ắp những mảnh thủy tinh vỡ.
Tôi đứng bên cửa sổ toa t ầu mà chẳng nhìn thấy gì lướt qua bên ngo{i… Sao sự thể lại x ảy ra với t ất c ả chúng ta th ậm t ệ đến như thế? V ới t ất c ả m ọi người, trong đó có cả tôi. Trước đó, họ vẫn còn nuôi những ước mơ lấp l|nh như pha lê, mà giờ đ}y ước mơ đó đ~ vỡ tan t{nh v{ chôn vùi dưới bùn đen. Hóa ra tôi đ~ trở thành một trong những kẻ phụng sự chinh thống nhất của t ổ hợp công nghiệp quân sự của chúng ta. Chính t ổ hợp này trong thực t ế là chiếc lá chắn tin
cậy của đất nước và trong m ột thời gian d{i l{ đối tượ ng xứng đ|ng trước c|c mưu toan bá chủ toàn cầu c ủa các nhà càm quy ền trên thế gi ới giấu m ặt hay lộ m ặt… Thế mà giờ đ}y trong th{nh phố, nơi tôi bướ c t ừ toa t ầu, trong chính cái thành ph ố mà tôi đ~ cống hiến 50 năm của cu ộc đời mình, không ai ti ếp nh ững người đại di ện c ủa nh{ m|y cơ khí Igiepxk đến kiên trì đề nghị mua sản phẩm cho họ. Họ không có lương vì sản phẩm của họ quá nguy hiểm. Không được cấp tiền, không được cấp khoản vật chất n{o kh|c bù đắp tương ứng. C|c phương tiệ n thông tin đại chúng nước ngoài, vốn hay dùng l ối so sánh hoa m ỹ, mới đ}y thôi còn gọi Igiepxk l{ “hòn ngọc trên vương miện” của t ổ hợp công nghiệp quân sự (BПK). B}y giờ thì chả còn BKП, chả còn vương miện, ngọc ngà gì nữa. Tôi muốn hỏi: có phải chúng tôi c ố ý làm ra thế? Hay chúng tôi th ực t ế có thỏa thuận với nhau? Tất c ả những điều này là sự nghiệp c ủa đời tôi, va tôi có th ể kh|ch quan. Để tránh nói suông, tôi xin d ẫn chứng t ừ “phía ngo{i”. Đ}y l{ đầu đề b{i b|o đăng trong số th|ng hai năm 1992, b|o Izvexchia: “Vũ khí thừ a c ủa Liên bang Nga tr ị giá gần 10 t ỷ đôla”. Gi| m{ ta b|n đượ c s ố vũ khí n{y để thu ngoại t ệ qu ốc t ế v ề! Để khỏi ph ải c ầu cạnh nhục nhã quỹ ti ền t ệ qu ốc t ế. Tuy nhiên, m ọi việc đ}u đơn giản: “BПK l{ con g{ mái có thể đẻ trứng v{ng. Nhưng… không phải d ễ”. Tại sao vậy, t ại sao?! “Tất cả các loại vũ khí sản xu ất trong nước đều có khả năng cạnh tranh, – ch ủ t ịch ủy ban Quốc gia về đổi mới trực thuộc Tổng thống tuyên bố như vậy, – Vũ khí bộ binh không có đối th ủ c ạnh tranh. Quả v ậy, trong thời gian gần đ}y, loại vũ khí n{y đ~ được ngườ i Ba Lan, người Séc, người Đức, ngườ i Hungari tích c ực buôn bán. R ất nhiều vũ khí đ~ bị l ấy c ắp t ừ các kho c ủa qu}n đội ta ở Đức, chế độ k ế toán cố ý nhầm lẫn và không thể kiểm kê được số lượng vũ khí còn giữ lại ở đó. Hiện nay mới đang soạn thảo cơ chế buôn b|n vũ khí. Mộ t ủy ban kinh t ế đối ngoại về xuất nhập khẩu vũ khí đ~ được thành lập, ủy ban này sẽ thực hiện và kiểm soát ng{nh kinh doanh đem lại lợi nhuận này, và tính cả đến các khía c ạnh chính trị cũng như c|c vấn đề kh|c. Nhưng, nếu ta không tiến hành hoạt động này thì không nên, bởi vì thực t ế đ~ chỉ ra rằng, chúng ta vừa ngừng cung cấp vũ khí cho khu vực nào đó, thì lập t ức nhà cung cấp khác chiếm lĩnh ngay thị trường ấy”. Tình trạng bất ổn làm cho cả t ờ bao bên kia đại dương “Niu Oóc Taimơ” lo lắ ng: “Sau khi chính thức mở cửa với thế giới bên ngoài, n ều kinh t ế của Igiepxk ngấp nghé ở con số không. Các h ợp đồng quân sự trước kia chiếm đến 70% nền công nghiệp ở đ}y, nay hầu như bị cắt hết”.
Dư luận ngày càng tăng lên cho rằng, nước Nga đ~ vộ i vàng t ừ bỏ vị trí công nghiệp quân sự, không tính đến m ột s ố nh ững thành t ựu mà chính quyền Xô viết đ~ đạt được đó l{: “Kho t{ng t{i năng v{ kinh nghiệ m công nghệ”.
Nước Nga nói chung, trong đó có Utmurchia nói riêng, đ~ trải qua một số năm nặng nề nhất. Tôi ngồi vào bàn làm việc để viết bức thư tiếp theo: “Gửi ng{i Wiliam Ioc, ngườ i gửi: Tiến sĩ Kalasnhicốp Ngài Bil vô cùng kính m ến! Cho phép tôi bày t ỏ lòng biết ơn ch}n th{nh về c ử ch ỉ thi ện chí – sự giúp đỡ nhân đạo đ~ d{nh cho tôi. Món qu{ n{y đượ c phân cho những công nhân và nhân viên k ỹ thuật đ~ tham gia chế t ạo và cải ti ến các loại vũ khí bộ binh dòng AK. Ngoài ra món qu{ n{y còn đượ c phát cho các trẻ mồ côi, các h ọc sinh và sinh viên nghèo. Thay m ặt họ, tôi xin chuyển t ới ông lòng biết ơn s}u sắc.
Lúc n{y đ}y, phải chăng vai trò của Kremli đ~ qu| thừa chăng? Kremlin đang đầu hàng, giờ ch ỉ còn biết làm cái việc là sản xu ất lòng biết ơn sang phương T}y, để đổi lấy của bố thí thảm hại mà có ma qu ỷ mới biết được sau này cháu chắt chúng ta phải trả nợ với lãi suất bao nhiêu. Còn tôi lại ng ồi xuống bàn làm việc. Tôi l ại viết những điều còn nặng nề hơn nữa… Vi đ}y l{ điều m{ chúng ta thườ ng gọi là tâm huy ết.
“C|c cựu chiến binh thân mến! Các ông nhắc tôi có giúp g ần gũi với giới thân cận t ổng thống – nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của tôi, t ổng thống Borix Enxin đến Igiepxk để trao cho tôi hu}n chương số một của nước Nga, thì hãy c ố gắng đề đạt để nh{ nước dành cho nh ững người công nh}n lao động lão thành t ừ những năm chiến tranh gian kh ổ một số điều khoản ưu tiên, đ|p ứng nguyện vọng của họ. Nếu được thế thì còn gì b ằng! Sau khi nhận được thư của c|c ông, tôi đ~ trực ti ếp h ỏi ban l~nh đạ o thành ph ố và nước c ộng hòa, nhưng ở đ}u cũng chỉ nh ận được m ột câu trả l ời như nhau: Lấy đ} u ra tiền để bù v{o, đó chỉ là một ph ần ưu đ~i m{ đ|ng lẽ các bậc công nhân lão thành trong chiến tranh vệ quốc được hưởng. Các ông chắc cũng xem tivi v{ nghe đ}u, ai cũng biế t rằng hiện nay các nhà máy chúng ta hầu như không l{m việ c. Không có sản phẩm tiêu thụ, thì không có l ợi nhuận để trả lương cho công nh}n nh{ m|y. Gi| cả tăng vọt, tình trạng kinh t ế của đa số d}n cư giảm sút và không biết đến bao giờ mới kìm được t ốc độ đi xuống. Phải nói một cách chân thành và th ẳng thắn rằng, lớp người chúng tôi bu ồn nh ớ khôn nguôi những thời đ~ qua. Thế hệ chúng tôi, những người đ~ trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại gian khó nhất, người thì đ~ từng ở ngoài chiến h{o, người thì đứ ng máy,
nhưng ng{y nay do Liên Xô đổ v ỡ l ại ph ải ch ịu b ất bình nhất, thiệt thòi nhất. C ủa c ải của to{n d}n tích lũy được do lao động miệt mài của chúng ta bỗng chốc b ị tàn phá, hủy hoại, vung phí b ởi bọn kẻ cắp, tham nhũng v{ đồng bọn, cho đến nay vẫn còn đang tiếp t ục bị tiêu t|n…” Tôi đ~ phải viết ra bao nhiêu b ức thư gửi đi c|c địa chỉ khác nhau. Dây chuyền chính của “ZMAS” đứng im. Các giá treo tr ống không. Trong các phân xưởng rộng mênh mông họa hoằn mới thấy thấp thoáng bóng dáng công nhân. Một l ần, c|ch đ}y không l}u, không biết l ần thứ bao nhiêu tôi d ẫn kh|ch l~nh đạo t ừ th ủ đô xuống thăm nh{ m|y. Khi gặ p m ột công nhân có tuổi người quen cũ, tôi tự hào nói với vị khách: - Xin giới thiệu, đ}y l{ một ông t ổ c ủa c ả m ột thế h ệ nh ững người s ản xu ất vũ khí lao động ở nhà máy chúng tôi. Nhà ông có t ất cả bao nhiêu người nhỉ, ông Pêtrôvích? – Và tôi g ập ngón tay thử tính – Hai con trai. Đúng không?
Ông ta nhìn tôi v{ nhìn sang ông kh|ch M|txcơva nói thảm hại: - Con rể, con dâu. Cháu n ội m ới v ề. Thôi đủ r ồi!… Đừng nói nữa. C ả th ế h ệ t ốt hơn l{ đi b|n h{ng vặ t, kẹo cao su ngo{i qu|n!… Còn ở đ}y lấy gì m{ ăn! - Cấp trên đến thăm chúng ta l{m gì nhỉ , có lẽ để phân phối đơn đặt h{ng chăng? – Ph}n xưởng trưởng đi cùng nói đỡ lời tôi – Có đơn đặt hàng chúng tôi s ẽ dễ chịu
hơn…
Quả thật vị khách cấp cao có “ph}n phối” đơn đặt h{ng cho “Izmas” l{m bằng tay một khẩu súng săn rất đắt tiền. Chỉ làm duy nhất một khẩu. Vâng, dù th ế chúng tôi vẫn cảm ơn! Th}m chí những đơn đặ t hàng nhỏ thế vẫn giúp những người thợ tài ba chúng tôi sống qua ngày. Và tôi mu ốn, giống như người rao hàng ở ngoài chợ phiên, kêu to lên cho to{n nước Nga nghe th ấy: h~y xem đ}y, nhữ ng khẩu súng săn của chúng tôi, đứng tiếc tiền mua!
Ng{y nay, đ~ có b|n những khẩu súng săn c|cbin, nhẵ n nòng và xoắn nòng, chế t ạo trên cơ sơ sơ đồ thiết kế của AK. Đó l{ khẩu “Saiga7.62” lậ p t ức chiếm được cảm tình của người đi săn, rồ i tiếp sau nó l{ “Saiga -410”, “Saiga-20”. Việc s ản xu ất loại vũ khí này không cần phải chi phí ph ụ, không cần lắp đặt lại dây chuyền công nghệ. Vì nhiều chi tiết có thể lắp lẫn với AK, v{ hơn nữa có nhiều phụ tùng lắp ráp dùng t ừ dây chuyền quân sự cũ không dùng tới để lại. … Buổi t ối, ch|u Igor đến chơi, chúng tôi cùng ngồ i uống trà rồi xem thời s ự trên tivi. Tôi không đeo tai nghe, thử nghe không như vậy. Trên màn hình, c ảnh Grôđnưi
bị tàn phá, c ảnh qu}n “không khoan nhượng” sau đó l{ qu}n đ|nh thuê. Ngườ i ta sẽ làm gì, nếu như chiến tranh vĩnh viễ n chấm dứt? – Trong phim có c ảnh phỏng vấn một người. - Sống thế n{o được? Tôi sẽ đi tìm điếm nóng ở nơi kh|c. – Người đó trả lời. Và anh ta đi đi lại lại, vuốt ve khẩu tiểu liên – như l{ muốn nựng nó: “Kalashinhcốp nuôi sống ta đ}y!” Tôi cứ nghĩ l{ nghe nhầ m, hỏi Igor: “Nó nói gì thế?” - Nó nói r ằng, ông nuôi nó đấ y, nội ạ! – Igor vẻ khó chịu giải thích – Kìa ông xem, cả một kho súng… Biết bao nhiêu mà k ể! Thế mà ông lại sinh bệnh… Tay ông giờ ra sao? Tôi thật không may: Ngón tay phải b ị tê dại, chỗ gi ữa ngón tay cái và ngón tay tr ỏ tôi cảm thấy có vết lõm đ|ng nghi ngờ . Làm thế n{o đ}y? Tôi gọi điệ n nhờ m ột giáo sư quen xem hộ. Ông khám kỹ bàn tay, lấy tay nắn toàn bộ c|nh tay đến t ận khớp tay và k ết lu ận chung chung: “Không giúp gì đượ c m ấy… Tuổi gi{ m{!” Một l ời an ủi th ế thôi!
Tuy nhiên, gi|o sư vẫ n chỉ định biện ph|p: đeo c|i “cổ |o” đặc biệt và hứa sẽ tìm cho một loại thuốc nước ngo{i n{o đó, không rõ lắm… có thể chỉ mới ở giai đoạn đầu – không thể khác. Thế là tôi sinh ra gi ận dữ: giận ông ấy, giận mình và giận cả trời lẫn đất. Tôi bắt đầu quở trách mình. Làm sau mà mày ph ải ủ đột đến thế? Mày không nhớ câu t ục ngữ n{y {: “Đừng vội nhụt chí!” Tôi mở cu ốn “khoa học chiến th ắng” của b| tước Alêchxanđr Vaxilievich Xuvôrố p, để xem vị nguyên soái nói gì v ề trường hợp n{y?… Lòi chỉ dẫn hoàn toàn rõ ràng: “H~y tr|nh xa nơi lườ i biếng! Thuốc c ủa Đức t ừ xa xôi dễ bị h ỏng, hoàn toàn mất tác dụng, lại vừa có hại. Ngời lính Nga không quen dùng. Chúng ta có nhi ều lo ại cây, rễ, lá, cỏ làm thuốc”. Tôi nhớ, trong một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về những người vùng núi, có những dòng đọc lên thật s ửng s ốt. Người k ỵ sĩ gi{ quở tr|ch người k ỵ sĩ trẻ: “M{y l{ kẻ lười nhác! Chỉ mu ốn ki ếm bánh mỳ bằng m ồ hôi chứ không chịu đổ m|u!” Lúc đó tôi nghĩ: Ch{ ch{, thời ấy khiếp thật. Phải chăng, thời ấy đ~ trở lại? Không chỉ ở ta, mà trên kh ắp thế giới cũng vậy. Mong cho đất nước Môzămbích có l| cờ in hình kh ẩu AK-47, cái cu ốc và quyển sách mở được yên hàn một chút. Mong cho c|c nước khác ở khắp châu Phi, châu Á, ở Trung Đông thực s ự quên đi rằng, súng không nuôi được ngườ i, mà chỉ có lao động và học t ập mới nuôi s ống được con người.
Một lần, đang suy ngẫm về t ất cả những điều này, thì b ỗng nhiên trong đầu tôi xuất hiện một t ừ nghề nghiệp chuyên môn, nhưng nó lại đúng những gì đ~ xả y ra với các nhà thiết k ế vũ khí, đó l{ từ: “Bật trở l ại”. Ít nhất cũng có ba ngườ i cúng tôi g ồm Iutgin Xtônner, Uzin Galin – Blasnhicốp và tôi thiết kế ra các kh ẩu tiểu liên nhằm mục đích tiêu diệt nhanh chóng bọn ph|t xít… Nhưng những viên đạ n bay ra t ừ khẩu M.16 l{ để rượt đuổi người Việt Nam đấu tranh thống nhất đất nước. Những loạt tiểu liên t ừ khẩu Uzi phá tan ni ềm hy vọng mong manh ở Palextin, và ở c|c nước láng giềng… Thế còn nói gì về khẩu AK của tôi? Đó l{ sự bật trở lại của lịch sử để lại những hậu quả đau buồn nhất: bắn giết lẫn nhau.
Mùa hè năm 96, v{o một ngày chủ nh ật tôi đi nghỉ, đế n gần trung tâm thành ph ố, tôi dừng chiếc UAT trước đèn tin hiệ u (chiếc xe này Bộ trưởng quốc phòng Uxtinốp cấp riêng cho tôi dùng để “nghỉ ngơi tích cực”). Ngó đi ngó lạ i, tôi nhìn th ấy chiếc v ỏ đạn AK lăn trên đườ ng nhựa, có thể nó b ị b|nh xe đi qua trước m ặt tôi hất văng ra, hoặc do gió th ổi đẩy t ới. Vô tình tôi đưa mắ t nhìn xung quanh và b ỗng nhiên, lại nhìn thấy cái thứ hai gần đấy… Thế l{ rõ, đêm qua ở đ}y người ta đ~ bắn… V{ tôi bỗ ng nhớ lại thời ở trường bắn, các chiến sĩ không đượ c trở về doanh trại nếu chưa tìm thấy hết vỏ đạn trong bãi cỏ… nhưng việc phải thế! Còn bây giờ thì ở ngay ng~ tư nhộn nh ịp này, chẳng ai buồn nh ặt v ỏ đạn, cũng không độ ng chạm đến ai: coi như l{ chuyện bình thường! Tôi mải nghĩ ngợi mông lung và cảm thấy cay đắng qu| đến nỗi đèn xanh đ~ bật mà tôi vẫn không đi. Một chiến sĩ cảnh sát giao thông trẻ măng đến gần hỏi; “Có việc gì xảy ra vậy?” - Không, không, – Tôi trả lời – Cảm ơn.
Người cảnh s|t đi khỏi, cuối cùng tôi cũng cho xe chạy và lại tiếp t ục dòng suy nghĩ: tai họa đ~ đế n, với chúng ta với t ất cả mọi người. Vũ khí đ|ng ra phải d ựng theo hình tháp, có người canh giữ nghiêm ngặt, phải để trong kho có b ảy lần khóa cửa, nhưng thực t ế lại trôi nổi, trao tay, h ầu như tự do buôn bán. Thật là tai h ọa, tai họa khủng khiếp!! Thế nhưng, tại sao ngườ i ta vẫn tiếp t ục coi những nhà thiết kế chứ không phải những nhà chính tr ị l{ “kẻ thù của xã hội?”.
Dưới đ}y l{ bức thư tôi mớ i nhận được. “Kính thưa ông Mikhain Timôphêêvích! Thứ bẩy tuần trước, trên t ờ b|o “Herald Sun” của Menbuốc có đăng b{i b|o về ông. Tôi nghĩ rằng tòa soạn, có thể không nghĩ tới vi ệc g ửi t ờ báo cho ông, vì vậy tôi
cắt ra đ}y để gửi cho ông. Ch ỉ dở một điều là tôi không biết địa chỉ của ông, nên tôi gửi giống như Sêkhốp g ửi cho “ông gi{ ở quê”. Qua b{i b|o tôi biế t rằng ông sống ở đ}u đó thuộc Igiepxk. Hy v ọng rằng ông sống không quá bí m ật, nên người đưa thư sẽ chuyển t ới được cho ông. Tôi r ất hài lòng khi ông nói v ề nước Nga hiện đại. Tôi cũng gửi cho ông lời của bài hát v ề nước Nga hiện nay. Lời thơ n{y hình th{nh v{o dịp gần đến năm mớ i, khi tôi nhìn th ấy trên hình tivi b ản đồ đất nước vĩ đại của chúng ta như đang bị gặm dần xung quanh. Chúc ông mọi điều t ốt lành! Xin gửi lời chào t ừ nước Úc xa xôi!
Kính thư. Igor Megiacốp – Côriackin” Kèm thơ bức thư l{ lời của “B{i h|t về nước Nga”, đ}y l{ đoạn đầ u của b{i h|t đó: Như đ{n chó núi gặm nước Nga B{n đồ xưa cũ chẳng nhận ra Tôi vẫn thế, nhưng dù th{nh nước khác Có bao giờ nghèo đói thế, nướ c Nga Gọi l{ “Nga” nhưng chẳng còn nướ c Nga Kẻ thù chinh ph ục? Chiến tranh tàn phá xót xa? Có thể ta không tán thành với tác giả – nhưng điều ghi nhận là ở ch ỗ khác: về tình cảm sâu sắc đối với Tổ quốc m{ điều đó ng{y nay ở đ}y, trong nước Nga, người ta đang tìm c|ch xóa bỏ trong giới trẻ. Gần đ}y, nh{ văn người Ađưgêi Innux Truiacô có gử i cho tôi cu ốn ti ểu thuyết c ủa ông mang tên “Truyền thuyết về con Sói Sắt”. Diễn biến của câu chuyện bao trùm gần hai thế kỷ: Từ khi tướng Ermôlốp chinh phục Capcadơ ở đầu thế kỷ trước, cho đến t ận những cuộc chiến tranh đau xót ng{y nay ở Apkhadia và ở Treesnhia theo tôi nghĩ. Cuốn tiểu thuyết viết rất chân thực và sâu sắc, nhưng điều mà làm trái tim tôi day d ứt hơn cả l{ đoạn mô t ả ngày Chiến thắng ở Beclin v{o năm 1945. Muốn hay không muốn, chiến tranh đ~ biến tôi th{nh ngườ i lính, và sẽ l{ người lính suốt đời cho dù bây giờ tôi mang qu}n h{m tướ ng. Truiacô vi ết rằng, trên quảng t rường lớn trước nhà quốc hội Đức còn nóng rực tiếng nhạc vùng Ađưgêi nổi lên, cuốn hút Capcadơ cứ đến v ới chúng tôi dần d ần r ất đông”. “Cậu ở đ}u?” “Ở Lezgin” “Còn cậu” “Tớ l{ người Apkhadia”. “Nhìn cậ u thì nhận ra ngay l{ d}n Acmêni!” “Còn cậu?”
“Cumức”!” “Còn cậu?” “Agiecbaidan!” Tôi l{ người Avari!” “Còn chúng tôi l{ ngườ i Oxêtin!” Cả vùng Capcadơ, to{n bộ Capcadơ đ~ có mặt ở đó! Có hai ch{ng Cadắc vùng Cuban dến g ần yêu cầu: H~y chơi tiếp điệu này này nhé! Xong r ồi! Anh em chúng tôi bắt đầu nhảy, các bạn Kadắc hừng hực lửa nhiệt tình hòa vào, và th ế là t ất cả cùng nhảy. Và kìa, con trai, có th ấy gì ở đằng kia không? Đầ u tiên là các chàng trai vùng Capcadơ nhảy, sau đó l{ tất c ả ai có mặt trên quảng trường đều nhảy điệu “Ixlamêi” của chúng tôi. Tôi chuy ển chiếc dùi trống cho “đứa con” của trung đo{n ngườ i Bêlarux và cùng tham gia v ới các bạn trẻ. Thế là t ất cả chúng tôi cùng nh ảy, cùng cười v{ cùng khóc…” Tôi cũng khóc: Vì sự thống nhất của chúng ta đ~ mất. Không phải chúng ta t ấn công nước Pháp: Mà Napôlê ông đ~ tấn công nướ c Nga. Không phải Liên Xô t ấn công nước Đức, Hítle đ~ ra lệnh cho c|c trung đo{n tấ n công ta. V{ ta đều rõ cả hai cu ộc chiến tranh 1813 và 1945 k ết cục thế n{o. Vì khi đó c|c dân t ộc c ủa nước Nga tin tưởng thiêng liêng v{o tình đo{n kế t anh em không gì phá vỡ n ổi… V}ng, mong cho tình cảm đó hồ i sinh lại trong tâm hồn ta, trong trái tim ta, vì Tổ quốc đang chịu nhiều đau khổ.
Ngay trước khi năm mới, tôi k ết thúc những dòng ghi chép n{y. Năm nay, mùa đông m~i không đến vùng chúng tôi, nhưng rồi cuối cùng những bông tuyết đ~ rơi, ở chỗ những chỗ đông người đ~ có b|n c}y thông. Tôi đứng trong nhà bếp, bên cửa s ổ và nhìn thấy trên s}n trường đối di ện ông già Tuyết |o đỏ, mũ đỏ bước t ừ xe ra, còn nh ững người giúp việc đi cùng thì bắt đầ u d ỡ các gói qu{ ra… Tôi nghĩ: Có sớm lắm không nhỉ? Hay là ông già Tuy ết nhiều việc quá nên phải bắt đầu sớm. Lúc n{y, trong đầ u tôi thoáng qua m ột ý nghĩ cay đắng: cầu mong cho ông ta kh ỏi phải mất việc trong thành phố chúng ta. Nghe thấy tiếng chuông điện thoại, mà những người t ốt bụng đ~ lắp thêm cho b ộ khuếch đại công suất mạnh, tôi cầm lấy ống nghe. Tổng gi|m đốc nh{ m|y cơ khí Igiepxk Trugupxki m ột nh{ vũ khí nhiệ t tâm, có chuyên môn cao, m ột người lao động vĩ đại gọi cho tôi. “Tôi nhớ ra, vào tháng ba chúng ta s ẽ kỷ niệm 50 năm ng{y ra đời c ủa kh ẩu tiểu liên Kalasnhic ốp, tôi quyết định l{m người đầ u tiên chúc m ừng…” “Thế là ông không kịp – Tôi trả lời cố ý tiếc rẻ. – Đ~ có người chúc trước…”. Vố n là người hóm hỉnh, ông nói to gi ọng sôi nổi: “H~y nói tên ngườ i đó cho tôi biết!” Tôi cầm chiếc phong bì để trên bàn cạnh điện thoại: “Raphic Xabirôvich Aizatulốp” – “Ông ấy l{ ai?” – Truguepxki hỏi. “Ông ấy l{ đồng nghiệp của ông: Tổng gi|m đốc nhà m|y cơ khí t}y Xibêri. Ông chúc mừng trướ c ngày kỷ ni ệm AK và mời tôi đến thành phố Nôvacuzônhetxk c ủa ông. Ông nói r ằng, tôi l{ điển hình của người lao động sống l}u…”. Ông đỡ lời: “Vị tướng đầu bạc vẫn đi c{y, đi c{y”.
Đ}y l{ một c}u trong b{i thơ cùng tên của nh{ thơ Igiepx Vlađimir Trapkin tặ ng tôi. B{i thơ đ~ kị p phổ biến rộng rãi trong giới bạn bè đồng hương chúng tôi v{ tôi tin rằng nó sẽ được phổ biến rộng r~i hơn, không phải vì nh{ thơ đ~ “đo|n trúng” mối quan hệ c ủa tôi. Không đơn giản là toàn thể nhân dân Nga chúng ta – nhân dân lao động và mọi người đ~ từ lâu chán không mu ốn nghe những lời ngược lại về họ, những lời chỉ trích họ. Và h ọ, cũng đ~ ch}n th{nh rờ i rạc phân tán và không có những t ấm gương tốt để noi theo. M ọi người đều rất muốn để t ất cả chúng ta cùng lao động chung, v{ lao động trong môi trườ ng xứng đ|ng để t ừ “vị tướng đầu bạc” cho đến em bé lau kính xe đứng trên ng~ tư dường đầy khói ga, bụi. Tuyết rơi ngo{i cửa s ổ. Qua màn tuyết, hiện ra những ngọn đèn trên c}y thông tỏa s|ng trong căn phòng đối diện của nh{ trường. Cuối năm: đ~ đến lúc tiến hành t ổng kết. Cuối thế kỷ. Và cuối m ột nghìn năm. Từ nay đến lúc đó còn lại bao nhiêu th ời gian nữa? – Và nếu như mỗi người “tổ ng kết năm” không khó khăn lắm thì chúng ta sẽ giải trình thế n{o cho mười thế kỷ đ~ qua? Chúng ta sẽ bước vào thế kỷ mới – kỷ nguyên mới như thế nào?
Đ~ l}u rồi, t ừ khi còn tr ẻ, vào cái th ời tranh chấp với k ỹ sư Deriabik chỗ đứng bên hồ đối diện với tòa nh{ cũ của “IMAS”, trong đau khổ tôi đ~ viết c}u thơ sau: Bằng lao động kiên cườ ng tôi dựng tượng mình lên,
B{n tay lính giơ cao cương trực. Biểu tượng nước Nga, không bao gi ờ khuất phục Là chính khẩu AK chiếm trọn vẹn niềm tin Từ “nước Nga” hồi đó không mốt, mà nói chung tôi vi ết không phải để in mà ch ỉ cho bản thân. Thế nhưng v{o th|ng năm, khi tôi ở thăm Thụy Sĩ, đại s ứ Xtêpanốp đ~ cho kéo cờ trước tòa nh{ đại sứ ta. Ông nói với tôi: - Chúng ta r ất hi ếm khi kéo c ờ, ch ỉ khi nào có sự ki ện đặc bi ệt n ỏi ti ếng. Hôm nay kéo cờ l{ để chào mừng ông. Ngay khi ở bên đó, tôi đ~ suy ngẫm: C| nh}n tôi l{ gì m{ đạ i sứ lại l{m như vậy? Chắc h ẳn để ra đi như vậy ông đ~ c}n nhắ c k ỹ, tin tưởng vào sự đúng đắn c ủa quyết định, nhất l{ đối v ới giới ngoại giao vốn là những người thông minh, không có hành động thừa… V{ trở về nh{, nghĩ đi nghĩ lạ i thì mới hi ểu. Hóa ra là báo chí Th ụy Sĩ đ~ kể v ề chuyến đi của tôi rất rộng rãi và thân tình – có thể chính họ đ~ thúc đẩy hành động ngoại giao trên.
Ở Thụy Sĩ, người ta rất trân trọng giữ gìn những k ỷ niệm vè Xuvôrốp và về nh ững tr|ng sĩ diệu kỳ của ông, như chính Xuvôrốp vẫn gọi những chiến sĩ của mình như vậy. Trong vùng núi Xen- Gôtard người ta đ~ x}y dựng khu tưởng niệm mới tuyệt vời làm sao! Và khi chúng tôi có m ặt ở đó, những nhà bình luận và các nhà báo r ỗi r~i đ~ bắt đầu nói và viết: Nhà thiết kế Nga nổi tiếng Kalasnhicốp rất giống đại nguyên soái Xuvôrốp. Khi bắt đầu nghe thấy c}u n{y, th}m chí tôi đ~ đi đế n gần gương soi, nhưng chỉ phát hiện ra sự ngạc nhiên trên mặt mình. Có th ể nguyên nhân là do tôi th ấp? Hoặc thể t ạng khô cứng, không thể nào gọi kh|c đi được? Giờ đ}y, khi năm mới đ~ cậ n k ề, khi sắp k ết thúc quyển sách của mình tôi lại nghĩ đến điều n{y. V{ tôi cũng nghĩ rằng: “Bức tượng” của tôi cũng thế không chỉ dành cho riêng tôi m{ còn để tưởng nhớ đến biết bao con người đ~ lao động quên mình để có được kh ẩu AK cho ng{y nay, nhưng họ l ại không được ai biết đến v{ không được ở đ}u nhắc t ới… Cũng như vậy, lá quốc kỳ kéo lên trước sứ quán Nga ở Thụy Sĩ không chỉ để chào mừng riêng tôi mà còn dành ni ềm vinh quang ấy cho cả các bạn, những người giúp việc và bạn chiến đấu củ tôi. Hơn thế nữa, đó cũng l{ niề m vinh quang của t ất cả đồng bào thân thiết của tôi, những người đang phả i kiên gan ch ịu đựng nhiều đau khổ! Cho dù những điều nói trên có hơi giố ng sự ban phát những lời chúc t ụng huyễn hoặc, thì lời nói chân thành, t ốt đẹp hiện nay ở nước Nga chúng tôi v ẫn được đ|nh gi| cao hơn l{ tiền. Nhưng tôi vẫn muốn dành những lời nói đó gửi t ới nh}n d}n vĩ đại chúng ta, nh ững người đang phải sống trong những ng{y khó khăn chung với mọi người hiện nay. Cho dù bức màn che trên chi ếc cửa sổ thiêng vẫn còn bưng bít, không một đốm lửa lọt qua, thì chẳng bao lâu nữa nhất định nó sẽ xuất hiện t ừ xa. Và lúc ấy t ất cả chúng ta sẽ thở phào nhẹ nhõm v{ cùng vui sướng rảo bước trên đường…
HẾ T.