Các khái niêm cơ bản trong Phong thuỷ
1
Các khái niêm cơ bản trong Phong thuỷ Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết : Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên là Phong thủy. Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy. Phong thuỷ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa chọn nơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ thống lý luận và phương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trường tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có thể ảnh hưởng đến con cháu của người đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người sinh sống tại đó. Thuật này đề xuất lý luận và phương pháp hướng dẫn người ta chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cư trú của loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Khi loài người bắt đầu có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho được nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh hưởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, người ta cố tìm cách mai táng sao cho có thể giữ gìn lâu dài thi thể người chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa học còn thấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn liền với hoạt động xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc trạch, Bốc cư, Bốc lạc phản ánh tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái Chu Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng triết học cần thiết. Thời Lưỡng Hán , đã xuất hiện các trước tác về Phong thủy như Cung trạch địa hình, Kham dư kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con người đã trở nên rất mật thiết, đồng thời xuất hiện những người chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt điều cấm kỵ mang tính chất mê tín đang thịnh hành trong xã hội đương thời. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con người được tầng lớp sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong thủy. Các sách Phong thủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại : Dương trạch và âm trạch. Thuyết "Tứ Linh" cũng bắt đầu hình thành. Các quan niệm âm dương ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà lạc, âm luật quý hậu được áp dụng vào thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dường, thuật Phong thủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm loại. Sách Trạch kinh, Táng thư đời Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Quốc còn đến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận
2
cho 2 trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất là Táng thư đề xuất "thuyết sinh khí" đã trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác được tôn là người sáng lập học thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong thủy là Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được tôn là tổ sư. Cuối đời Đường, xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện và phát triển về lý luận và phương pháp, đồng thời chia thành nhiều trường phái khác nhau. Phái Lý pháp đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hưởng của thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời được Lý học đời Tống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã hội Trung Quốc cổ đại. Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ khí, Đắc khí. Nội dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy âm trạch, trong đó Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội dung của Phong thủy âm trạch bao gồm : khảo sát hình dạng núi non sông nước trong một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và phương hướng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhưỡng, thước tấc huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức người cải tạo địa hình. Nội dung của Phong thủy dương trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa thế cao thấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi công và trình tự xây dựng, hướng mở cổng cửa, kích thước cổng cửa, các loại cây trồng và phương vị sở tại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính thống nhất giữa nhà ở với các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dương trạch hay âm trạch cũng đều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai "pháp" có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau người ta theo xu thế kết hợp cả hai. Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung Quốc, hiển nhiên chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đồng thời thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích lũy hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới được phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất : thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại. Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cười; hơn nứa quan niệm cho rằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu chưa hề có tư liệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa. Kham dư: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thư. Dương Hùng truyện viết: "Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đồ trạch thư". Văn tuyển. Cam tuyền phú viết : "Hoài Nam Tử nói Kham dư "hành hùng (đực) để biết thư (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy". Hán thư. Nghệ văn chí chép 14 quyển "Kham dư kim quí". Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng là "sách viết về
3
phương vị Phong thủy". Sử ký. Nhật giả liệt truyện . "Thời Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ? Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dư đáp không được". Tùy thư. Kinh tịch chí có chép "Kham dư lịch chú", "Địa tiết kham dư", bàn về cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy. Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12 vị thần. Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan sát tượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ thời Tùy Đường trở đi, người ta dần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết : "Các nhà Kham dư thời cổ tức là các nhà "tướng trạch đồ mộ" thời cận đại, các nhà địa lý ngày nay"; chứng tỏ về sau người tá mới đưa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham dư. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu quen dùng thuật ngữ Kham dư, còn dân gian thì gọi là Phong thủy. Địa lí : Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên đàm lục viết : "Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý". Cố Viêm Võ đời Thanh trong Xương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết " Hoàng hậu họ Từ qua đời, Lễ bộ thượng thư Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, chọn đất tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình". Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký của Lục Du đời Tống: "Kỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, "Ai biết ngôi chùa kia là do trời đất tạo dựng nên.. Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn địa dư này chăng?" Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ nói gần giống như Kỷ vậy". Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 viết : "Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sư". Âm trạch : Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: "Đại phu bói về nhà ở và ngày mai táng". Sớ : "Trạch, nghĩa là đất mồ mả". Đời sau người ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú ngụ vào chữ "trạch", nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120 : "Nếu ta chết ở chốn này, thì đây là âm trạch". Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng, tức Phong thủy âm trạch. Dương trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu "trạch" vừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi mồ mả là âm trạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời Đường : "Phàm dương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm trạch tức là có khí âm ôm dương". Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa, tức phong thủy dương trạch. Âm dương trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy âm trạch và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại diện cho Phong thủy. Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là "Thanh Ô đồ" . Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện : "Phác giỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thày họ Quách ẩn cư ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển sách chứa đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chiếc túi vải xanh) tặng Phác". Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy, mượn tên Quách Phác viết
4
lời tựa. Dần dần thuật Phong thủy được gọi là thuật Thanh nang. Trạch tướng: Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ , được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói : Họ ngoại có được trạch tướng tốt vậy". Về sau người ta dùng hai chu "ngoại sanh" (cháu ngoại) thay cho chu "trạch tướng". Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đường viết : "Vương Mãng làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất giống người cậu của mình". Gia tướng : Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình, hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà). Địa tướng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông núi, hình tướng của mồ mả, nên gọi là Địa tướng (tướng đất). Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản thị địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị : "Bốc triệu dinh thất gồm 2 việc; một là luận sơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu chốt của nhà kham dư". Bốc cát : Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu lục, quyển 1, của Vương Minh Thanh đời Tống, viết : "Vĩnh Xương Lăng bốc cát, lệnh cho Tư thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc". Về sau "Bốc cát" được dùng để chỉ việc chọn đất mai táng. Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh : "Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự". Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử. nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển. Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan. Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 : "Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa". Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, "Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị". Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng, hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới, thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là "Uất thảo", cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực. Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được xây
5
dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc. Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: "Bốc lạc dịch long thế, Hưng loạn võng bất vong" . Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng, mai rùa có những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : "Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập". Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị" . Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : "Đường Ngu bốc địa, Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc". Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ "Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ". Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy. Bốc trạch: Chữ "trạch" có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Thượng thư. Chiếu cáo: "Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh", ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư trú. Bài thơ "Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa". Thơ Di cư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : "Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ước phú giao cư ". 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thượng: "Đại phu bốc trạch và ngày mai táng". Sớ của Khổng Dĩnh Đạt : "Trạch là đất mai táng". Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng của Cố Viêm Vũ đời Thanh : "Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai". Đời sau bèn gọi Phong thủy là Bốc trạch. Bốc cư : Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỷ. "Đức công nguyên niên, bốc cư Ung". Sau chỉ việc chọn đất định cư. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ "Hành trạch" của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam triều : "Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại". Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đường của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền". Bốc thất : Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : "Phiêu phiêu số niên như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây". Minh sử. Trương Khả Đại truyện : "Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử". Bốc vũ : Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều : "ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách" . Bốc trúc : Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện : "Bốc trúc dương tiễn sơn trung, độc thư thập niên dư" Bốc lân : Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : "Thả Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. 'Nhị, tam tử tiên bốc lân hề". Đỗ Dự chú giải: "Bói láng giềng tốt". Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu :
6
"Nhất tạc bồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u". Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú, đồng thời biểu thị với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ. Bốc lão : Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc lão ở Đan Đồ". Chiêm trạch : Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng đế trạch kinh : " Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự đoán tình hình họa phúc cát hung" Tướng trạch : Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển" . Tùy thư. Kinh tịch chí có chép " Tướng trạch đồ" 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép " Tướng trạch đồ" 1 quyển. Sinh khí 1) Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dương tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói "Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy" (Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên điều quan trọng nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dưỡng vạn vật. Loài người được nó nuôi dưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của nó thì hung. Sự sống của loài người là kết quả hội tụ sinh khí , sinh khí ngưng kết thành cốt cách của con người. Người ta chết đi, máu thịt rứa nát, xương cốt vẫn còn; nếu đem thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở nơi sinh khí hội tụ, thì sinh khí sẽ nhập vào xương cốt mà trở thành nuôi dưỡng con cháu của họ, cho nên nói : "Mai táng phải thừa sinh khí vậy" (Táng thư). Đây là cơ sở lý luận của Phong thủy âm trạch. Còn về Phong thủy dương trạch mà nói , vì sinh mệnh của con người do sinh khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm được mảnh đất có sinh khí thịnh vượng mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà được sinh khí nuôi dưỡng. Nhưng sinh khí dưới lòng đất nuôi dưỡng người từ bên dưới, lực lượng ở sâu mà công hiệu chậm, cho nên khác với âm trạch, dương trạch còn phải có được "thiên hạ" (khí trời). Khí trời trực tiếp sưởi ấm thân thể con người lực lượng ở bên trên mà công hiệu nhanh , cho nên "Dương trạch dưới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì muốn có vượng khí của trời" (Tướng trạch kinh soạn . quyển 4), bởi vậy khi xây dựng nhà ở phải chú ý hướng mở cổng, cửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phương vị, để tiếp nhận vượng khí , loại trừ tà khí. 2) Phương vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phương vị cố định nào đó đối lập với "tử khí". Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phương vị sinh khí này, ắt sẽ thu được hồng phúc lớn lao. Phương vị có sinh khí không giống nhau trong một năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phương bắc dịch sang đông 15 độ, Xem mục nhị thập tứ sơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở Dần, tháng 4 ở Mão, ất; tháng 5 ở Thìn, Tốn; tháng 6
7
ở Tỵ, Bính; tháng 7 thân, Canh; tháng 8 Mùi, Khôn; tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở Dậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn; tháng 12 ở Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phương chính bắc, thuận theo chiều kim đồng hồ mà xoay 1 vòng. 3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh. 4) Chữ "khí" ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với "không khí", nó là một chất đặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể người. Ngoại khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nước chảy trên mặt đất. Nước chảy trên mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngoại khí chuyển tải, chỉ nội khí mới có thể tụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nước ) ngăn lại mà nội khí tụ. Nội khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận hành trong lòng đất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng. Long thần: Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, biểu hiện là long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén dùng hai chữ "Long thần" để biểu thị sự kỳ diệu của nó. Thiên khí: 1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dương tràn ngập trong trời đất; ẩn tàng mà vận hành dưới lòng đất thì gọi là "sinh khí", phát tán trôi nổi trong không trung thì gọi là "thiên khí". Hoặc nói là khí chia ra âm dương, khí dương gặp gió thì vận hành, sưởi ấm thân thể, người, tức khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong thủy dương trạch coi việc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu. 2) Phương vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phương vị 8 thiên can Giáp, Canh, Bính, Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí. Địa khí: Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đất, phát ra mà sinh thành vạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem mục Sinh khí, Thiên khí. Cát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vượng. Thuộc dương. Thi thể người chết sau khi mai táng nếu được cát khí nuôi dưỡng, thì vong hồn sẽ bay lên phù hộ cho con cháu hưởng phú quí. Sinh khí cũng được gọi là cát khí. Sát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm núi hoặc chỗ lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản thay đổi hướng cổng, cửa. Thực khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực khí, đất càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên núi càng phải lớn mới là cát. Nhưng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm cho Minh đường rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lưu. Xem mục Hư khí. Hư khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (nước) là Hư khí. Nước càng
8
sâu khí càng mạnh, nước càng nông khí càng yếu, cho nên nước phải sâu và chảy xa mới là cát. Nhưng Hư khí không thể tự nó trở thành nông sâu, núi cao thì nước mới cô thể dài xa, nên Hư khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem mục Thực khí. Hung khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc âm. Nếu thi thể người chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong hồn sẽ bị hung khí dìm xuống, ảnh hưởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên nghèo hèn, hiếm muộn, tai họa. Lậu khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật Phong thủy, Long đến hình dừng, nhưng thủy lưu không ôm lấy, tạo thành chỗ khuyết, sinh khí từ chỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành. Phong thủy dương trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa trước, thì sinh khí vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu hai bên phòng ở không có hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí không lành. Cốt trùng: Là loại sinh vật hư cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho rằng loài người tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngưng kết thành xương cốt. Người ta chết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xương cốt vẫn còn. Sau khi mai táng, sinh khí thấm vào xương cốt, có ảnh hưởng tốt con cháu người đã khuất. Thời Trung Hoa Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xương cốt loài người giống như san hô, do các cốt trùng nhỏ xíu ngưng làm thành. Người ta chết đi, cốt trùng vẫn còn, cảm với sinh khí mà ảnh hưởng tới con cháu (xem Thuật bốc phệ tinh tướng học, quyển 3). Thực chất đây là dùng học cận đại phụ họa thuật Phong thủy, hoàn toàn vô căn cứ. Địa lý ngũ quyết: Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình pháp trong thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát sa), Thủy (quan thủy), Hướng (lập hướng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó có ảnh hưởng khá mạnh tới lý luận Hình pháp. Tam cương ngũ thường: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đưa ra cho phù hợp với quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cương là : " Một, Khí mạch, là cương phú bần tiện; hai, Minh đường, là cương sa, thủy đẹp xấu; ba, Thủy khẩu, là cương sinh vượng tử tuyệt" . Ngũ thường là : "Một, Long, long phải chân (thật); hai, Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp); bốn, Thủy, thủy phải bao (ôm); năm, Hướng, hướng phải cát (lành). Ngũ tính : Đem họ (họ tên) của người phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn cứ vào đó mà dự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào giữa thời Hán và Đường, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ thể như sau : trước tiên, phối họ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thương, giốc, chủy, vũ. Phát âm họ của một người , nếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thương, ở kẽ răng là giốc, ở lưỡi là chuỳ, ở
9
môi là vũ. Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa, thủy. Ví dụ các họ Trương, Vương, là thương; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung; họ Triệu là giốc. Người không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trước tác Phong thủy có liên quan để biết họ của mình thuộc âm nào. Định được ngũ âm rồi, thì biết được ngũ hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc mà xây nhà đặt cửa. Ví dụ, họ Trương là âm thương, thì cổng, cử chính không được đặt ở hướng nam, vì thương thuộc kim, mà phương nam là hỏa, hỏa khấc kim, không lành. Lại như họ Đồ là âm chủy, cổng nhà không được mở ra hướng bắc, vì chủy thuộc hỏa, mà phương bắc thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa hướng của phần mộ, có ca quyết đơn giản như sau : "Thương, giốc nhị tính, bính nhâm ất tân; cung, vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc địa đắc cung, thứ sử vương công; đắc địa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn bất cung, thất địa thất cung, tuyệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh). Ngũ phúc lục cực: Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm : thọ, phúc, khang ninh, hiếu đức, khảo chung mệnh; I ục cực gồm : yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, độc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thượng thư. Thuật Phong thủy cho rằng lục cực cứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân bằng tạo nên. Cho nên chọn đất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vượng, thuận hợp ngũ hành, để trừ lục cực đón ngũ phúc. Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thương tích, sinh ly tứ biệt, tai nạn hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngược điên cuồng. Học thuyết Lí pháp trong thuật Phong thủy cho rằng mai táng phải có được âm long, âm huyệt, âm ứng, hoặc dương sơn, dương thủy, dương huyệt, dương ứng, là khí thuần nhất, thì có thể tránh được Ngũ hung. âm dương ở đây chỉ thuộc tính âm dương của phương vị Xem mục Nhị thập tứ sơn. Giang Tây phái : Trường phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trường phái lớn. Phái Giang Tây do Dương Quân Tùng đời Đường khởi xướng. Họ Dương về cuối đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là người Giang Tây, nên có tên như vậy Thuyết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn mạch, thủy lưu; lặn lội phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng, chú trọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn mạnh sự phối hợp long, huyệt, sa, thủy. Còn gọi là phái Loan đầu. Thuyết này về sau hình thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dương Quân Tùng là tổ sư, lần lượt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tuấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trước tác của phái này hiện còn rất nhiều, tiêu biểu là Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị trượng pháp của Dương Quân Tùng, Táng thư người đời Tống mượn danh Quách Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý luận của phái Giang Tây chú trọng quan sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui nạp rất nhiều hình thế sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dương trạch thường mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng của nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây từ đời Đường Tống trở đi, lưu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút giảm, nhưng vẫn được xã hội tiếp thu rộng rãi, có ảnh hưởng rất sâu rộng. Hình pháp : 1) Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong thủy do trường phái
10
Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vượng mà cát, ắt hình sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn cứ vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan thủy, lập hướng, tết cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác định cát hung. Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên. Lý luận dương trạch cũng chú trọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhiều hình vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trường phái tiên phong Giang Tây đề xuất và định nghĩa, mà được hậu thế nhất trí thừa nhận. Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả giới tự nhiên chân thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tương đối dễ hiểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Trước tác tiêu biểu của thuyết này là : Táng thư, Hám long kinh, Nghi long inh, Thập nhị trượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp , Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập thư. 2) Một học thuyết về thuật số cổ đại. Nội dung bao gồm : xác định hình thế sông núi, để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tướng địa, tướng trạch, tướng người, tướng lục súc tướng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn dùng hai chữ Hình pháp như chữ Phong thủy. Loan đầu phái : Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng hình dạng của núi sông, nên có tên như vậy. Phúc hiến phái : Trường phái Phong thủy. Một trong 2 trường phái lớn của thuật Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến), nên có tên gọi như vậy. Đến Vương Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trường phái này chủ yếu căn cứ vào cái lý của âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà tính toán. Nhấn mạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định hưu cữu (cát hung) âm trạch cũng thường luận về cát hung của tọa hướng, chủ yếu sử dụng cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc trạch pháp. Thuyết này về sau phát triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, trước tác cũng không nhiều, có chăng thường là mượn tên của người đời trước, khó biết đích xác là của ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lưu truyền rộng rãi ở vùng Chiết Trung, ảnh hưởng kém hơn hẳn phần Giang Tây. Lý pháp : Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý luận Phong thủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý thuật số như : âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhân mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ thuyết Bát trạch trong lý luận
11
dương trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử nguyên phi bạch, phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của người phối hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được. Trong âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số căn cứ vào phương vị sông núi mà tính toán. Dù là âm trạch hay dương trạch, hầu như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức và quá trình suy lý rất trừu tượng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính tư biện. Trước tác về lý luận gồm Bát trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài. nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng, huyền bí nên nó không được tầng lớp dưới trong xã hội tiếp nhận. Ốc trạch pháp : Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dương trạch hết sức chú trọng nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch kinh nên có tên như vậy. Đồ trạch thuật : Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đường, phép này lấy họ tên của người phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng phối hợp với ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác định cát hung về nhà ở và mộ phần của những người có họ khác nhau. Chương "Khiết thuật thiên" trong Luận hoành của Vương Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch thuật. Xem mục Ngũ tính. Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Thời Hán có Hình pháp gia, là người xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau những người hoạt động Phong thủy đều tự xưng hoặc được gọi là Hình gia. Kham du gia : Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên sinh. Đời Hán có các nhà Kham dư. Sử ký. Nhật giả liệt truyện : "Thời Hiếu Võ đế, ông mời các thày bói đến hỏi : vào ngày nọ có thể cưới vợ được không? nhà ngũ hành bảo được, các nhà Kham dư nói không được". Các nhà Kham dư đoán cát hung dựa vào 12 thần, tương ứng với khu vực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu quan, có quan hệ nhất định với Phong thủy. Nên đời sau dùng Kham dư để gọi thay cho Phong thủy, còn nhà Kham Dư tức là Phong thủy tiên sinh. Hằng ngôn lục của Tiền Đại Hân đời Thanh viết: "Nhà Kham dư đời xưa, tức là người xem nhà cửa, mộ phần đời nay". Xem mục Kham dư. Âm dương gia : Một trong "Cửu lưu" (9 trường phái) thời Xuân Thu, thời Hán cũng có âm dương gia, bao gồm nội dung : can chi âm dương, ngũ hành sinh khắc, ngũ đức chung thủy. Trước tác có Kham dư kim quí, cũng chứa đựng nội dung Phong thủy, nên đời sau gọi Phong thủy tiên sinh là âm dương gia hoặc âm dương tiên sinh. Âm dương tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy , vốn xuất phát từ tên gọi âm dương gia thời Tiên Tần. Hai chữ tiên sinh biểu thị sự tôn kính. Mông nhân : Chức quan thời Chu, chuyên trách quản lý phần mộ chung, phân biệt địa hình, vẽ đồ hình trình lên thượng cấp.
12
Mộ đại phu : Chức quan thời nhà Chu , chuyên trách quản lý phần mộ trong nước, vẽ địa hình bốn phương và phần mộ trình thượng cấp . Lư trạch đãi chiếu : Chức quan đời Hán. Trung Quốc cổ đại phần nhiều dùng hệ thống quan lại "Thái sử lệnh" quản lý bốc phệ chiêm tinh, tướng trạch, tướng mộ; thời Hán thiết chế "Đãi chiếu" 37 người dưới chức Thái sử, trong đó có 4 người là Lư trạch đãi chiếu, chuyên trách về tướng trạch. Tư thiên đài học sĩ : Chức quan thời Kim. Các triều Trung Quốc thời xưa dùng hệ thống cơ cấu quan lại Tư thiên đài để quan sát tượng trời, định lịch pháp. Thời Kim quy định chức Học sĩ trong phạm vi toàn quốc phải trải 1 hi tuyển mới được bổ vào chức đó. Khoa mục thi tuyển thiên văn, lịch pháp, chiêm bốc, thuật Phong thủy (Địa lý tân thư) và thuật hợp hôn an táng. Một khi đã trúng tuyển trở thành Thiên đài học sĩ, phải đồng thời tham gia sự hoạt động Phong thủy. Âm dương nhân : chức quan đời Nguyên. Đời Nguyên quy định Tư thiên giám tuyển chọn âm dương nhân qua thi cử. Khoa mục thi tuyển gồm : chiêm toán, tam mệnh, Chu dịch, Lục nhâm, Phong thủy dương trạch (thi theo "Chu thư bí áo", "Bát trạch thông chân luận"), Phong thủy âm trạch (thi theo "Địa lý tân thư", "Doanh nguyên tổng luận", "Địa lý minh chân luận"). Trúng tuyển sẽ trở thành âm dương nhân thuộc Tư thiên giám, tham gia tòng sự hoạt động phong thủy. Về sau , đời Minh cũng có thiết chế âm dương nhân thuộc Khâm thiên giám, tòng sự hoạt động Phong thủy. âm dương sinh Thời Nguyên, Tư thiên giám thiết lập khoa âm dương học, học sinh theo học khoa ấy gọi là âm dương sinh, chuyên về thuật số, lấy Chu dịch làm đầu, thứ đến thiên văn, tinh mệnh, chiêm bốc, tướng trạch, tướng mộ. Tư thiên giám lo bồi dưỡng nhân tài, học sinh do các địa phương trong cả nước tiến cử, qua thi tuyển, nếu đỗ sẽ được nhập học. Đời Minh, Khâm thiên giám cũng có thiết lập khoa Địa lý, dạy phương pháp lý luận Phong thủy; có chức quan nào khuyết, sẽ được bổ nhiệm. Phong thủy tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy. Từ đời Đường bắt đầu có tên gọi.này, nó trở nên phổ biến khắp nơi trong nước cũng có khi gọi là Phong thủy sư. Phong thủy sư : Tên gọi nhung người chuyên hoạt động Phong thủy. Xem mục Phong thủy tiên sinh. Địa lý gia : Tức Phong thủy tiên sinh, vì Phong thủy còn gọi là địa lý, cho nên người chuyên hoạt động Phong thủy còn gọi là địa lý gia. Vân lộc mạn chung, quyển 4, của Triệu Nhan Vệ đời Tống, viết : "Nhà địa lý không rõ có từ thời nào . Từ khi Hoàng đế ra lệnh thay đổi Giáp tí, phối hợp can chi mà phân ngũ hành, nay nhà địa lý tất có thuyết đại ngũ hành, chẳng hạn Nhâm thuộc thủy, nhà địa lý báo bảo Nhâm thuộc Hỏa". Dung am bút ký. Dật văn của Tích Phúc Thành đời Thanh: "Người đời rất tin vào lời nói của nhà địa lý, họ bảo mai táng người thân ở chỗ đất lành, thì con cháu sẽ được giàu sang phú quí,
13
trái lại sẽ nghèo hèn suy tuyệt" Địa lý tiên sinh : Người lấy thuật Phong thủy làm chức nghiệp, tức Phong thủy tiên sinh. Vì Phong thủy còn gọi là địa lý, nên có tên gọi đó. Sơ khắc phách án kinh kỳ, quyển 16: "Lại cách 2 tháng nữa, mời một địa lý tiên sinh đến chọn đất hoàn tất việc mai táng Vương thị, từ đó dần dần có người tới cầu thân". Địa lý sư : Tức địa lý tiên sinh. Sơ đàm tập . Sư hữu. Học đạo của Lý Chí đời Minh : "ở đây Cưu Thắng là địa lý sư (thầy địa lý). Kiên Hồ tứ tập. phong thủy của Chử Nhân Hoạch đời Thanh : "Thân phụ của Hồ Sơn Khiêm nói với thầy địa lý rằng, người đời biết tường tận về huyệt mộ trong núi, há biết đến huyệt mộ trong lòng người". Táng sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy âm trạch . Phong thủy chia ra âm trạch và dương trạch. Âm trạch chuyên nói về việc chọn đất mai táng, nên người ta gọi người chuyên về hoạt động này là táng sư. Địa sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy. Phong thủy có tướng địa, bốc địa, lại còn gọi là địa lý, địa học, nên người ta gọi người chuyên tòng sự hoạt động Phong thủy là địa sư. Bốc công : Người tòng sự chiêm bốc. Luận hoành. Cát nghiệm của Vương Sung đời Hán: "Ban đêm không trăng mà trong phòng tự bừng sáng, vua lấy làm lạ, bèn triệu Công tào sứ Sung Lan đến để đi hỏi bốc công". Còn chỉ người tòng sự hoạt động Phong thủy, tức Phong thủy tiên sinh. Hậu Hán thu. Đống Tuyên truyện : "Công Tôn Đan làm nhà ở, mà bốc công cho rằng nhà này sẽ có người chết". Thái Bình quảng ký, quyển 137, dẫn sách U minh lục của Lưu Nghĩa Khánh thời Nam triều : "Phụ thân của Viên An chết, bà mẹ sai An mang gà rượu đến biếu bốc công, nhờ chọn đất chôn cất". Đạo sĩ : Chỉ Phong thủy tiên sinh. Vốn chỉ người theo đạo phương sĩ, tăng lữ, tín đồ Đạo giáo, trong đó phổ biến chỉ tín đồ Đạo giáo. Vì các phép vu thuật, phù chú của Đạo giáo cũng giống như các phương pháp tương tự trong thuật Phong thủy, nên vào một số thời kỳ, ở một số nơi các đạo sĩ cũng tham gia hoạt động Phong thủy, đồng thời các Phong thủy tiên sinh chân chính cũng được người ta gọi là đạo sĩ. La bàn : Còn gọi là La kinh. Công cụ quan trọng nhất trong thuật Phong thủy. Do Tư nam bàn, Lục nhâm bàn diễn hóa mà thành , xuất hiện như một công cụ định hình chuyên dùng trong thuật Phong thủy vào khoảng cuối đời Đường Năm 1985 đào được một chiếc la bàn bằng gỗ trong tay bức tượng "Trương Tiên. Nhân" thời Nam Tống bằng đất nung. Đến đời Minh, Thanh, la bàn được chế tạo khá lớn, chứa dựng nội dung cũng ngày thêm phức tạp; chiếc la bàn lớn nhất đạt tới hơn 40 lớp, bao gồm vạn tượng kinh vĩ trời đất, tập hợp cái lý của hai khí âm dương, cái chỉ của bát quái ngũ hành, cái số của Hà đồ Lạc thư, cái tượng của thiên văn tinh tú, trình tự của tiết khí bốn mùa, dùng để xác định phương vị, quan sát thiên văn, tính toán ngày lành, dự đoán họa phúc, trở thành công cụ không thể thiếu trong hoạt động Phong thủy, biểu hiện nhận thức và hiệu chỉnh góc lệch địa bàn, đồng thời gợi mở vô số khái niệm mang tính suy lý tổng hợp và liên tưởng triết học. Nhất là khi ứng dụng cho học thuyết Lý pháp thì nó càng thêm huyền bí khó hiểu.
14
La kinh: Tức La bàn. Thuật Phong thủy dùng nó để thâu tóm vạn tượng, kể cả kinh vĩ trời đất, huyền diệu khó đoán. Xem mục La bàn. La bàn bát kỳ : Chỉ 8 trạng thái của chiếc kim trên la bàn trong những tình huống khác nhau, đó là : đường, đoái khi, thám, trầm, nghịch, trắc, chính. Đường, chỉ chiếc kim la bàn run rẩy bất định, không trở lại trung tuyến, chứng tỏ dưới đất có đồ cổ. Đoái, nghĩa là đột khởi, chỉ chiếc kim cứ nằm ngang la bàn, không trở về trung tuyến, chứng tỏ dưới lòng đất có khoáng sản hoặc vật bằng sắt. Khi nghĩa là dối trá, chỉ việc dùng sắt nhiễm tử dẫn kim, khiến nó di chuyển không ổn định. Thám, nghĩa là chúi xuống, chỉ chiếc kim nửa nổi nửa chìm, hoặc một đầu nổi, đầu kia chìm. Trầm, nghĩa là chìm, chứng tỏ dưới đất có đồ đồng. Nghịch, nghĩa là không thuận, chỉ kim nổi mà không có trật tự. Trắc, nghĩa là không thẳng, chỉ kim cứ dao động sang hai bên, không trở về trung tuyến. Chính, nghĩa là không tà, chỉ kim ổn định, luôn chỉ hướng Tí Ngọ. Trong bát kỳ, chỉ có Chính là cát; còn 7 trạng thái kia chứng tỏ đất chỗ ấy không lành, không nén làm nhà, xây mộ. Thiên trì : Trung tâm la bàn, tức lớp thứ nhất. Nói chung, đường kính là 1 thốn 2 phân, tượng trưng 12 tháng trong 1 năm; sâu 3 phân, ví với 1 tháng có 30 ngày. Thiên trì trên la bàn dùng để bố trí kim la bàn chỉ hai hướng nam bắc, cũng có loại vẽ đồ hình Thái cực mà không bố trí kim la bàn. Phân kim : Phương vị. Tức lấy 60 Giáp Tí phối thuộc ngũ hành, như Giáp Tí, ất Sửu là kim, bính dần, đinh mão là hỏa, mậu thìn, kỷ ty là mộc, canh ngọ, tân mùi là thổ, bính tý, đinh sửu là thủy. Vì ngũ hành lấy kim làm đầu, nên gọi là phân kim. Còn gọi là 60 long, trên la bàn biểu thị phương vị, đồng thời có thể dựa vào đó mà phán đoán sinh khắc cát hung. Chính châm : Trên la bàn lấy phương vị nam bắc mà kim nam châm chỉ hướng làm Chính châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Chính châm để xác định tọa hướng của nhà cửa, phần mộ. Có thuyết nói Chính châm dùng để định ô vuông của Lai long. Địa bàn: Các lớp sở thuộc Chính châm trên la bàn gọi là Địa bàn, thống nhất ở dưới Chính châm, dùng để xác định tọa hướng. Có thuyết nói vừa để định ô vuông của Lai vừa để định hướng. Xem mục Chính châm. Trung châm : Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, ngược chiều kim đồng hồ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Trung châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Nó có tác dụng hiệu chỉnh góc lệch địa bàn , có tính chất khoa học, song thuật Phong thủy giải thích là do tác dụng cảm ứng của khí ngũ hành hoặc hai khí âm dương. Trung châm trên la bàn dùng để định ô vuông Lai long. Vì Lai long là từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, nên trước tiên phải xác định tọa hướng của chúng. Có thuyết nói Trung châm dùng để nạp thủy.
15
Thiên bàn : Các lớp sở thuộc Trung châm trên la bàn gọi là Thiên bàn, thống nhất ở dưới Trung châm. Tác dụng của Thiên bàn là định ô vuông Lai long. Vì long thuộc dương, thiên (trời) cũng thuộc dương, nên gọi là Thiên bàn. Lại vì trời thuộc dương, mà đất thuộc âm, dương động trước mà âm động sau, nên Thiên bàn vận hành trước nửa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Thiên bàn dùng để nạp thủy. Xem mục Trung châm. Phùng châm: Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, thuận chiều kim đồng hổ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Phùng châm, thực tế là cột bóng Tí Ngọ, tức là dùng cột bóng để đo bóng nắng mà biết được phương vị nam bắc. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Phùng châm để thu nạp sa, thủy. Vì sa thủy là tử gần ra xa, tử trong ra ngoài, nên cần vận hành nửa bước mà thu nạp. Có thuyết nói Phùng châm chuyên để tiêu sa. Nhân bàn : Các lớp sở thuộc Phùng châm trên la bàn gọi là Nhân bàn, thống nhất ở dưới phùng châm, dùng để tiêu sa nạp thủy. Vì sa thủy là từ gần ra xa, từ trong ngoài, nên Nhân bàn vận hành sau nứa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Nhân bàn dùng để tiêu sa. Xem mục Phùng châm. Môn xích : Một trong những công cụ chuyên dùng trong thuật Phong thủy. Làm bằng gỗ, trên cán chia thành từng nấc đều nhau, với các ký tự phân biệt cát hung, để đo đạc kích thước cổng, cửa và đồ dùng trong nhà. Nếu khớp vào ký tự cát tường thì là cát (tốt lành), khớp vào ký tự hung thì là hung. Môn xích gồm các loại như Lỗ Ban xích (thước lỗ ban), môn quang xích. Lỗ Ban xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Mặt trước và mặt sau cùng chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 5 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. Dùng để đo kích thước cổng, cửa đi, cửa sổ, phòng khách, bếp, các vật dụng trong nhà . Lấy chiều ngang, chiều dọc, hoặc 3 chiều dài, rộng, cao, nếu rơi vào chữ cát tường là cát, rơi vào chữ hung là hung. Còn tính chi li hơn, như cổng, cửa chính phòng khách nếu rơi vào các chữ "quyền lộc", "cát khánh" , "quan lộc" , " thiên lộc" là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà rơi vào các chữ " tử tôn" , "hoạnh tài" , "tuấn nhã" , " yên ổn" là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các chu " thanh quí" , "mỹ vị" là đại cát; cửa đi, cửa sổ thư phòng nếu rơi vào các chữ "trí tuệ", "thông minh" là đại cát. Do độ dài của thước thời xưa và thời nay khác nhau, cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thước Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29,7 cm. Môn Quang xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Trên mặt chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng để đo kích thước nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tường (tài, nghĩa, quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thước Môn quang là 42, 76 cm.
16
SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH Long mạch núi (sơn mạch) : Vốn là tên một con vật mang lại may mắn, theo truyền thuyết cổ đại Trung Quốc. Thuật Phong thủy mượn để chỉ mạch núi có sinh khí, nhấp nhô uyển chuyển như hình con rồng, nên gọi mạch núi, thế núi là Long. Âm dương nhị trạch toàn thư : "Sự vận hành nhấp nhô của mạch đất (địa mạch) gọi là Long". Sinh khí vận hành trong lòng đất, không thể trực tiếp nhìn thấy, mà chỗ sinh khí thịnh vượng biểu hiện là mạch núi. Cho nên, Long là sinh khí sớ tại, Long đi thì khí đi, Long dừng thì khí dừng. Đất là mẹ của khí, khí dày ắt núi cao, khí dài ắt Long dài. Khí là mẹ của thủy, Long đi ất thủy tùy theo, thủy ngăn lại ắt Long dừng. Long gắn liền với sinh khí. dòng nước, chẳng thể tách riêng. Long dừng khí tụ, ắt là đất lành, có thể làm nhà xây mộ. Do mạch núi thiên hình vạn trạng, nên Long có hàng loạt tên gọi. Các bộ phận của mạch núi cũng có sự phân biệt thành các bộ vị khác nhau trên thân Long. Mạch núi có đất, đá, cỏ cây, trong đó đất là thịt của Long, đá là xương của Long, cây cỏ là da lông của Long. Ở vùng đồng bằng không có núi, thì chỗ hơi nhô cao lên là Long. Ở vùng đất thấp trũng, thì thủy đạo (đường nước) là Long, gọi là Thủy Long. Để phân biệt với mạch núi, thế núi của mạch núi gọi là Sơn Long. Thẩm Long hình, biện Long mạch, định vị trí của nhà cửa và huyệt mộ, là nội dung quan trọng hàng đầu của thuật Phong thủy. Lấy mạch núi chỉ sinh khí, dùng cha Long cho thêm thần bí, là mặt hạn chế của thuật Phong thủy. Còn mượn cách tìm Long để lặn lội khảo sát hoàn cảnh địa hình thích hợp cho việc dựng nhà xây mộ, là mặt có giá trị của thuật Phong thủy. Địa mạch : Tức mạch khí dưới lòng đất, sự vận hành lên xuống của nó biểu hiện ở mạch núi trên mặt đất, cũng là "Long" trong thuật Phong thủy vậy. Long mạch Mạch núi. Nơi sinh khí vận hành. Thuật Phong thủy gọi mạch núi là Long. Long có mạch khí vận hành trong đó gọi là Long mạch. Tầm long : Còn gọi là "mịch Long". Tức là khảo sát toàn diện và thăm dò đo đạc hoạt động của chủ sơn (núi chính), là bước thứ nhất trong nội dung của thuật Phong thủy. Phương pháp tiến hành cụ thể là : trước hết, phải xem mạch núi bắt nguồn tử xa hay gần, tổ tông của nó cao to chừng nào, cha mẹ của nó ở đâu, tiến thoái rõ ràng hay không; hai bên mạch núi có các chi nhánh nhấp nhô như hộ vệ hay không, nếu có nhiều thì đại (rất) quí; thứ đến trung quí (quí vừa), tiểu quí; cuối mạch núi cần có thế thoải xuống, đằng trước cần có thủy lưu uốn quanh, hai bên có dãy núi hộ vệ, như vậy thì sinh khí mới dừng tụ, gọi là Chân Long. Long chia ra âm dương, đại thể mạch núi chạy sang bên trái (hướng đông) là dương, chạy sang bên phải (hướng tây) là âm. Lại coi mạch núi thuộc phương vị
17
dương chạy đến là dương, mạch núi thuộc phương vị âm là âm. Khi tầm Long, phải chú ý điều hòa phương vị âm dương. Nguyên tắc chung của tầm Long là nó phải tụ, nghĩa là mạch chính rõ ràng, uyển chuyển tiến về phía trước, không nên phân tán thành nhiều mạch nhánh khó tìm. Ở chỗ Long dừng lại, tức chỗ cuối mạch núi, cần có thủy ôm ấp sinh khí tụ tập; nếu không, sinh khí sẽ thoát đi nơi khác, là đất hung. Phương vị của nơi mạch núi nhập thủ cũng có qui định phức tạp, đại thể nếu từ phương bắc nhập thủ là cát Tầm Long là nội dung trọng yếu của thuật phong thủy. Những tổng kết về mạch núi và một số nguyên tắc là kết tinh vốn kinh nghiệm lâu dài. Lai long : Tức núi chính (chủ sơn). Chỉ mạch núi chủ yếu ở giữa, cao lớn nhất. Lai Long đồng hành với mạch khí, là nơi sinh khí thịnh vượng, có thể dựng nhà xây mộ, tức là nhừ Lai Long mà đấc sinh khí. Bởi vậy, trước tiên phải khảo sát phương vị, hình dáng của Lai Long để định cát hung. Chủ sơn: Địa hình, tức Lai Long. Chỉ mạch núi hoặc ngọn núi chủ yếu ở phía sau huyệt mộ hoặc nhà ở, là nơi có mạch khí, sinh khí theo đó mà đến. Xem mục Lai Long. Tổ long : Mạch núi. Còn gọi là Sơn tổ. Chỉ nơi xuất phát của mọi mạch núi trong thiên hạ, tức núi Côn Luân. Côn Luân có hình thế cao lớn hùng vĩ, chúa tể thiên hạ. Tổ Long tách ra 2 đại hành Long là Nam Long và Bắc Long. Có thuyết nói chia ra 3 đại hành Long, nghĩa là có thêm Trung Long. Tổ Long và hành Long là nơi sinh khí tổng hội tụ, dựng nhà xây mộ tại đó thì đại cát. Sơn tổ : Tổ tiên của các mạch núi. Còn gọi là Tổ Long, tức núi Côn Nam long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền nam Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam thì tách khỏi Bắc Long mà chạy xuống phía nam, đến Thượng Lạc (nay là huyện Thường, tỉnh Thiểm Tây), vượt Hán Thủy, đến núi Kinh, men mạch núi Đại Ba chạy xuống phía đông nam, lại vượt Trường Giang, đến Hoành sơn, men phía đông Nam Lĩnh, tới Phúc Kiến, Chiết Giang mà ra biển. Thuật Phong thủy cho rằng mạch núi Nam Long phần nhiều kỳ vĩ, ở Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh) tạo thành địa thế hiểm trở, là đất đế vương phát tích. Bắc long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền bắc Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam, Hoa sơn, lại vượt Hoàng Hà mà quành lên phía bắc, qua núi Vương ốc, núi Thái Hành, chạy sang phía đông, đến Liêu Đông thì dừng. Thuật Phong thủy cho rằng Bắc Long là đất kết tuyệt vời, với các đỉnh núi cao ngất trời, được Hoàng Hà và sông áp Lục ôm ấp trước sau, cùng với mạch núi Yên sơn tạo nên cơ nghiệp đế vương ngàn năm. Trung long : Một trong 3 đại hành Long, chỉ mạch núi nằm ở khoảng giữa Nam Long và Bắc Long. Phần đầu nó đồng hành với Nam Long, đến Tần Lĩnh thì hướng sang phía đông, qua mạch núi Đại Biệt mà ra biển. Mạch núi này không có thế liên tục rõ rệt, chỉ là do vua cha của Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương được an táng tại Phụng Dương, tỉnh An Huy, nên người đời Minh thần bí hóa Trung Long một cách khiên cưỡng.
18
Khiếu lĩnh : Mạch núi. Thuật Phong thủy dùng để đặc chỉ mạch núi ở miền tây nam, thuộc Nam Long. . Tái viên : Thời xưa gọi vùng biên giới phía bắc là Tái viên. Thuật Phong thủy dùng để chỉ mạch núi miền đông bắc, thuộc Bắc Long. Toàn khu : Hình thế núi. Chỉ mạch núi khởi từ đường chân trời, có đầu có đuôi. Thái tổ ở nơi xuất phát cao lớn hùng vĩ, đoạn giữa liên tục, nhấp nhô, phần cuối kết huyệt có tình, triều sơn và án sơn phía đối diện ngay ngắn đoan chính. Chỉnh thể trông như toàn bộ thân mình đầy đủ của một con rồng, như vậy thì sinh khí tự nhiên thỉnh vượng, an táng sẽ đại cát. Phân chi : Hình thế núi. Chỉ mạch núi chính tách ra mấy mạch nhánh, các ngọn núi nhô cao, xếp đặt có thứ tự lớp lang. Chỉ cần Tổ sơn cao lớn hùng tráng, thì sinh khí của các mạch nhánh cũng sẽ thịnh vượng, an táng sẽ đại cát. Ẩn phục : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tuy có ngọn núi không cao to lắm, nhưng nhấp nhô chạy đến, liên tục không đứt, lúc ẩn lúc hiện, đến ngay trước mắt. Long ẩn phục có sức mạnh lâu dài, an táng sẽ cát. Thực tế tương đương ẩn Long. Xem mục ẩn Long. Lĩnh quần long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở giữa, được các ngọn núi xung quanh tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên nó trở thành thủ lĩnh, an táng sẽ cát. Sinh long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi cao đẹp, nhấp nhô lên xuống, uyển chuyển chạy đến một cách sinh động, đồng thời có khá nhiều mạch nhánh, giống như cành lá phân bố đồng đều, như con rết lắm chân, hoặc không có mạch nhánh, nhưng giống như chuỗi ngọc đẹp. Sinh Long có tương ngũ hành thuộc hỏa, an táng sẽ cát. Phi long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi sinh động khoáng đạt, có 2 mạch nhánh như hình chim nhạn giang cánh, phượng hoàng sải cánh ôm ấp huyệt mộ; an táng sẽ cát. Đằng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tương đối thấp, nhưng dần dần đi cao lên, với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày rộng. Phải chọn huyệt tại đỉnh núi, gọi là định Thiên huyệt; an táng sẽ cát. Giáng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp lạ thường, nhưng mỗi lúc đi một thấp dần, giống như con rồng từ trên trời mây đáp xuống biển xanh. Giáng Long có sinh khí cực vượng, an táng sẽ đại cát. Có câu ca rằng "Thế nhược giáng Long, thủy nhiễu vân tòng, tước lộc tam công" (Thế như rồng đáp, từ mây cuốn nước, tước lộc sánh ngang chức tam công) (theo sách Quản thị địa lý chỉ mông). Hồi long : Hình thế núi. Như Phiên Long. Chỉ mạch núi uốn lượn trở lại, đầu đuôi tương ứng, giống như con rồng cuộn mình lại. Hồi Long có tượng ngũ hành là mộc, là đệ nhất Long; an táng sẽ đại cát.
19
Phiên long : Hình thế núi. Xem mục Hồi Long. Ngọa long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi đường bệ sừng sững, dáng vững vàng, yên ổn, chân núi thu lại như con hổ dừng chân, con trâu nằm quì. Ngọa Long có sinh khí lâu bền; an táng sẽ cát, tuy phát tích hơi muộn. Thụy long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi du dương mà đến, thản nhiên bình dị, khí độ ung dung, tinh thần bình tĩnh, giống như mắt rồng nhắm lại, mạch khí ẩn phục, tương tự Ngọa Long, có tượng ngũ hành là thổ; an táng sẽ cát. Hoành long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tràn ngang qua, tiến thẳng không vòng lại. Nói chung không nên định huyệt; nhưng nếu sa, thủy có tình, có tả hữu hộ vệ, thì cũng có thể an táng gần sống núi, gọi là Phán Long định huyệt. Xem mục Phán Long định huyệt. Xuất dương long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tứ chỗ đất bằng đột nhiên cao vút lên, siêu quần xuất chúng một mình đẹp đẽ, uốn lượn như rắn bò, giống ngư mãnh thú ra cửa rừng. Xuất dương Long có sinh khí thịnh vượng, sức mạnh rộng lớn, chớ thấy nó đơn độc mà bỏ qua; về tượng ngũ hành, Xuất dương Long là kim, an táng sẽ cát. Ẩn long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi bàng bạc từ xa mà đến, mạch lạc không rõ, tông tích lừ mờ, như có như không, giống như rồng rắn ẩn hiện; thực ra nó uốn trườn liên tục, sinh khí không hề bị tiết thoát, cứ thế tiến đến thẳng huyệt vị. Ở chỗ tận cùng, địa thế tựa như bàn tay để ngửa; định huyệt ở nơi hai dòng nước hội tụ; an táng sẽ cát. Can long: Hình thế núi. Chỉ một mạch núi chính trong một số mạch núi, cao lớn hùng vĩ, có nguồn gốc từ xa, giống như thiên mã hành không (ngựa trời phi trên không trung), khí tượng tôn quí, có vô số núi hai bên hộ vệ. Can Long có sính khí cực vượng, nếu triều và án sơn có tình, thì an táng đại cát, chủ con cháu đời đời làm quan to. Chi long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tương đối nhỏ tách ra từ mạch núi chính, thấp và ngắn hơn núi chủ. Sinh khí của Chi Long không vượng, nếu an táng ở đó, con cháu chỉ bình thường mà thôi. Bình nguyên long: Địa hình. Đồng bằng không có núi, lấy gò đống làm Long. Nếu không có cả gò đống, thì lấy chỗ đất hơi cao làm Long, như câu "Đất cao 1 tấc cũng là núi". Nhưng nếu dùng sức người đắp đất cao lên thành gò thì không Phải là Long. Hoặc lấy thủy đạo làm Long. Xem mục Thủy Long. Giáp phụ long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi nhỏ hơn ở hai bên mạch núi chính, như cành lá tách ra tứ thân cây hình thế thâm thúy; an táng sẽ cát. Ứng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi đối diện với Lai Long; cần phải ngay ngắn có tình, hô ứng với Lai Long.
20
Nếu Lai Long không có ứng, thì không phải là Chân Long; Ứng Long không có chủ thì cũng không phải là Chân ứng. Sát long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hung dữ, đá cứng sần sùi, nhọn sắc như lưỡi dao, mũi tên, hiểm ác dị thường; an táng ở đó con cháu sẽ gặp nhiều tai họa, hung hiểm. Kiếp long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tán loạn, không phân chính phụ, sinh khí không tụ; an táng sẽ đại hung. Phúc long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn ốc thâm hậu, hình thế tổ tông hoàn hảo, có các núi hai bên hộ tống. Phúc Long có sinh khí thịnh vượng; an táng được phúc. Dù tình huống nơi kết huyệt không thật như ý, cũng có thể căn cứ địa hình cụ thể mà chọn huyệt mộ. Bệnh long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi uể oải, lúc liền mạch lúc đứt quãng, sạt lở, nhiều hầm hố, do đó sinh khí bị thất thoát, không nên mai táng. Nếu miễn cưỡng kết huyệt, chủ con cháu cô hàn. Tiến long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn gốc cao lớn, lần lượt thấp dần tổ tông cha mẹ phân minh, giống như ngựa trời phi xuống ráng mây. Nếu phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi tựa hồ cao dần lên, an táng sẽ khiến con cháu làm quan to; tương tự Giáng Long. Thoái long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi sau khi xuất phát cứ từng bước cao dần. Nếu ở phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi cứ tựa hồ thấp xuống, như lúi lại, thì an táng sẽ hung. Dù được huyệt đẹp, con cháu cũng chỉ phát phúc một đời, khó tránh khỏi bần cùng. Thuận long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trập trùng chạy đến, các mạch nhánh hai bên đối xứng, phía trước có dãy núi bao bọc hộ vệ, bản thân nó nhấp nhô rõ ràng với nhiều mạch nhánh. An táng sẽ cát. Nghịch long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi chạy đến không thuận, chạy xéo đi không ngoảnh lại, các ngọn núi phía trước và hai bên huyệt quay đầu đi mỗi cái mốt hướng, như anh em chẳng buồn quan tâm đến nhau. Không nên mai táng. Cường long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hùng tráng, linh hoạt khí khái, mạch nhánh hai bên có lực. Nếu an táng ở chỗ cuối của mạch núi, con cháu sẽ lập tức trở nên phú quí. Nhược long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trơ trọi đơn bạc, cỏ cây lơ thơ, tựa như con trâu gày trơ xương, ngã quỵ xuống đất, như con hạc gày không có gì ăn, rụng hết cả lông.
21
Nhược Long quá ít sình khí, không nên mai táng. Tử long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi lở lói, hình thể lở loét, không thể gượng dậy nổi, không có mạch nhánh hộ vệ, như cá mắc cạn, như cây không cành lá, chẳng nên mai táng. Thái tổ: Hình thế núi. Còn gọi là Tổ sơn, Thái tổ sơn, phát tướng. Chỉ đỉnh núi ở nơi mạch núi xuất phát, đột nhiên nổi lên cao sừng sững, trấn giữ một phương, là đỉnh núi cao to nhất trong vùng. Từ đây có một hoặc nhiều mạch nhánh xuất phát mà trườn đi như rắn bò. Thái tổ phải cao chọc trời, hùng vĩ trang nghiêm, đường bệ đáng kính. Thuật Phong thủy lấy quan hệ gia tộc thời cổ đại để ví với địa mạo. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ, tiếp đến Thái tông, Thiếu tổ, Thiếu tông, Phụ mẫu (cha mẹ), Tử tôn (con cháu), trong đó con cháu chỉ triều và án sơn. Xem các mục bên dưới. Tổ sơn: Tức Thái tổ. Xem mục Thái tổ. Phát tướng: Hình thế núi. Tức Tổ sơn. Xem mục Tổ sơn Thái tông: Hình thế núi. Tức Thái tông sơn. Chỉ đỉnh núi tiếp sau chỗ xuất phát, thấp nhỏ hơn Tổ sơn một chút, là phần đầu của mạch núi. Thiếu tổ: Hình thế núi. Tức Thiếu tổ sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau Thái tông trong mạch núi, là phần hệ trọng của Long. Nếu hai cánh mở ra, cao to đoan chính là cát; nếu thấp nhỏ cô đơn là ít sinh khí. Thiếu tông: Hình thế núi. Tức Thiếu tông sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau thiếu tổ trong mạch núi, tiếp cận chỗ của mạch núi, nếu rõ ràng mạch lạc và liên tục là cát. Phụ mẫu: Hình thế núi. Chỉ nơi nhập thủ của mạch núi, mạch núi tới đó thì dừng. Phải nguy nga cao đẹp, lại lại có thế đi xuống. Ca quyết nói : "Vấn quân hà giả vi phụ mẫu, huyệt hậu nga nga tủng nhất sơn" (Xin hỏi thế nào là núi cha mẹ, là sau huyệt có một ngọn núi cao vút nguy nga). (Theo sách Kham dư mạn hưng). Tử tôn: Hình thế núi. Tức triều và án sơn. Chỉ dãy núi đối diện với Lai Long. Sau khi mạch núi đã tận cùng, cần có đất dung nạp huyệt mộ và sa ở hai bên tả hữu. Ngay phía trước huyệt mộ, phải có núi cao với diện mạo như chào đón, gọi là Tử tôn (con cháu) của Long. Giáng thể : Hình thế núi. Chỉ nơi Lai Long nhập thủ phải có hình thế từ cao trải xuống thấp dần, để địa thế dần dần trở lại bằng phẳng, tiện lợi cho việc dựng nhà xây mộ. Chẩm kháo: Hình thế núi. Chỉ đồi núi ở sau lưng nhà ở hoặc phần mộ, nói chung là nơi tận cùng của Lai Long, cũng chính là Huyền Vũ. Chẩm kháo có nghĩa là đối đầu dựa vào phía sau.
22
Tam thoa: Hình thế núi . Tam là 3 , thoa là giao nhau. Chỉ mạch núi ở chỗ nhập thủ giao nhau như hình chữ "cá" (của tiếng Hán), nên còn gọi là "Cá tự" . Hai mạch nhánh chạy ở hai bên phía trước là Long, Hổ, huyệt vị nằm ở giữa chỗ giao nhau, hai bên có dòng nước kèm theo, ví như cái trán trên mặt người. Cá tự : Tức Tam thoa. Xem mục Tam thoa. Cầu thiềm: Hình thế núi. Phía dưới Tam thoa của Lai Long, trong mạch núi đột nhiên nhô lên một khối cứng, gọi là Cầu thiềm. Hai bên Cầu thiềm có hai dòng nước, tức "Tiều bát tự" (chữ Bát nhỏ), ví như chót mũi trên mặt người . Thiền dực : Địa hình. Trong chỗ Tam thoa của hai Long, địa thế ở hai bên hơi nhô cao, nằm phía trong hai sa Long, Hổ, ôm lấy phía trước huyệt, gọi là Thiền dực sa (sa cánh ve). Vì nó như có như không, lúc ẩn lúc hiện, như hai cánh mềm ngang sườn con ve, nên có tên gọi đó. Nó có tác dụng hạn chế nước chảy ra từ Tam thoa (ví dụ Hà tu thủy) không cho hội hợp trong Tiểu minh đường. Táng khẩu: Địa hình. Chỗ đất hơi lõm phía dưới Cầu thiềm của Lai Long, gọi là táng khẩu, huyệt vị chính ở chỗ này, bên dưới nó là Tiểu minh đường, ví như Nhân trung trên mặt người. Hợp khâm: Địa hình. Chỗ đối xứng đầu mút hai sa tả hữu phía trước huyệt mộ, giống như hai vạt áo khép lại (khâm, nghĩa là vạt áo), ví như cái cằm trên mặt người. Nếu ở đó có 2 dòng nước giao hợp, thì gọi là "Hợp khâm thủy". Cầu nhiêm: Địa hình. Chỗ đất hơi nhô cao ở nơi hai sa tả hữu phía trước huyệt mộ giao nhau, gọi là Cầu nhiêm, giống như bộ râu trên mặt người (nhiêm, nghĩa là râu; cầu, nghĩa là hình tròn) Tam kỳ: 1) Hình thế núi. Tức tam kỳ của núi hoặc của Long. Chỉ 3 hình thế : phó (đi), ngọa (nằm), phiên (lăn). Phó, nghĩa là mạch núi từ xa đi tới với thân hình ngay ngắn, nhấp nhô liên tục, có tả hữu hộ vệ, đến thẳng trước mắt. Ngọa, nghĩa là mạch núi vắt ngang thong thả, không có các nhánh, như cái cầu vồng vắt ngang bầu trời . Phiên, nghĩa là mạch núi uốn mình, đầu ngoảnh nhìn đuôi, giống như chuỗi ngọc vòng kiềng. Mạch núi tuy có thiên hình vạn trạng, song cũng không nằm ngoài 3 hình thế lớn vừa kể, nên tam kỳ là điểm mấu chốt của việc tầm Long. 2) Thủy đạo. Tức tam kỳ của thủy, là hoành, triều, nhiêu. Hoành, nghĩa là dòng nước chảy ngang qua trước huyệt, du dương êm đềm, như cây đàn chiếc cung đặt nằm, tụ tập sinh khí. Nếu nước chảy xiết, ắt đục ngầu mà có tiếng réo; nếu chảy xéo, chảy ngoặt, ắt sinh khí không tụ, là hung. Triều, nghĩa là dòng nước chảy đến tứ phía đối diện, hình dáng như cây đàn huyền, dòng chảy chỉ hơi gợn sóng lăn tăn, thái độ khiêm nhường; nếu chảy xộc thẳng tới, gọi là bắn thẳng; nếu chảy xéo đến, gọi là phạt chân, có tiếng nước réo, đều là hung. Nhiêu, nghĩa là dòng nước chảy uốn lượn như dây thắt lưng, như tường vây quanh thành, ôm quanh huyệt mộ; nếu dòng nước ôm bên tả mà không ôm bên hữu hoặc ngược lại, thì không phải là
23
"nhiêu", sẽ hung. 3) Tam hình. Chỉ sơn thủy, án. Xem mục Tứ thế chi hình. Ngũ cát ngũ hung: Tiêu chuẩn cát hung của hình mạo sơn thủy. Núi mà cao chót vót, kềnh càng, thô lậu, ủng thũng, hiểm trở là ngũ (năm) hung; còn hùng tráng, tôn quí, cao to, kỳ lạ, hiển yếu (nổi bật và hệ trọng) là ngũ cát. Thủy mà đối xung, chảy xéo, xối thẳng, chảy xiết, rời xa là ngũ hung; hoặc gấp gáp, quay lưng, phân lưu, không nguồn, xâm hại, là ngũ hung; còn chảy ngang qua, nguồn dài, uốn lượn, trấn núi, ôm vòng là ngũ cát; hoặc chảy lững lờ, êm đềm, từ xa đến, tụ tập, vòng quanh cũng là ngũ cát. Ngũ cát ngũ hung chuyên được dùng để khảo sát hoàn cảnh, huyệt mộ, chỉ xét đại thể, không quan tâm tiểu tiết. Tam cát ngũ hung: Địa hình. Tiêu chuẩn tổng hợp mà thuật Phong thủy dùng để luận về địa hình sơn thủy và các sự vật liên quan. Về núi, nếu hình thể hoàn chỉnh, khí độ hùng tráng, tinh thần chung thủy là tam cát; còn núi trọc, núi đứt, núi đá, núi vượt (quá sơn), núi đơn độc (độc sơn) là ngũ hung. Về thủy, nếu chảy êm đềm, phẳng lăng, uốn lượn là tam cát; nếu tù đọng, chảy như thác, đục ngầu, chảy xiết, hiểm than (vùng nước nguy hiểm) là ngũ hung. Về địa thế, nếu liền chắc như thành quách , chỗ xung yếu, rừng cây yên tĩnh là tam cát; còn núi cao nước nghiêng, núi gắn nước xối thẳng, sơn thủy bức hại, núi loạn nước tẽ nhánh, núi lộ nước nông là ngũ hung. Về thôn xóm, nếu chất đất vững vàng chắc chắn, dòng chảy có kè đá, ở vị trí thông thương quan trọng, là tam cát; còn đất đá nham nhở, thâm sơn cùng cốc, dốc đứng chênh vênh, trũng lõm ẩm thấp, cùng sơn ác thủy, là ngũ hung. Về luân lý con người, nếu con cháu phú quí, anh em hòa thuận, cha hiền con hiếu là tam cát; còn bệnh tật thương tích, sinh ly tử biệt, hình phạt thảm tử, cô đơn chết yểu, cuồng vọng bại gia, là ngũ hung. Những mặt liên quan đến hình thế sơn thủy, cũng có tiêu chuẩn cả. Tóm lại, cần theo cát tránh hung. Ngũ tiễn chi địa: Địa hình không cát lành. Ngũ tiễn gồm: phong tiễn, thủy tiễn, thồ tiễn, thạch tiễn, mộc tiễn. Sườn núi sạt lở, lõm núi miệng vực, quanh năm gió thổi ù ù như tên bắn, là đất phong tiễn. Nơi có nước chảy xiết nguy hiểm, thác đổ ầm ầm như tiếng sấm, cuốn theo bùn cát, là đất thủy tiễn. Nơi có bãi cát mênh mông, sỏi đá lổn nhổn khắp nơi, cây cỏ không mọc nổi, kiến bu từng đám, là đất thổ tiễn. Vách núi chênh vênh, đá tai mèo lởm chởm sắc như dao, gò đống lởm chởm trơ ra như răng chó, là đất thạch tiễn. Rừng cây âm u, cây cối nhằng nhịt dây leo đầy gai, không thấy ánh nắng, là đất mộc tiễn. Đất ngũ tiễn thì hung, không nên làm nhà ở. Tứ thế tam hình: Địa hình bốn phía. Còn gọi là "Tứ ứng tam kỳ". Tứ thế, còn gọi là tứ ứng, tứ phụ, tức địa hình bốn phía trước, sau, phải, trái. Tam hình hoặc tam kỳ, tức sơn thủy, án; trong đó "sơn" chỉ dãy núi phía sau huyệt mộ; "thủy" chỉ dòng nước phía trước huyệt mộ; "án" chỉ dãy núi phía trước huyệt mộ, tức án sơn (núi án ngữ). Thế lớn mà hình nhỏ, thế xa mà hình gần, nên nói "Ngàn thước là thế, trăm thước là hình" (Táng thư). Xác định hình thế tức là khảo sát môi trường xa gần xung quanh huyệt mộ một cách toàn diện, khái quát phần lớn nội dung của phong thủy âm trạch, là khái niệm cực kỳ quan trọng của thuật Phong thủy. Nói riêng, thì tứ thế là môi trường lớn xung quanh huyệt mộ, thường là
24
chỉ hình thế mạch núi tương đối xa. Quan trọng nhất là Lai Long ở phía sau, tiếp đó là Triều sơn ở phía trước, cuối cùng đến dãy núi ở hai bên tả hữu. Cụ thể lại có các thuật ngữ khác nhau, như Lai Long là thế "phát tích" Triều sơn là thế "thú tập", tả hữu là thế "củng phụ". Rồi núi như chuông treo búa đặt là thế đoan tịnh (ngay ngắn sạch sẽ), như chuỗi ngọc là thế liên tục, như tiền hô hậu ủng, hộ vệ hai bên là thế giáp (tùy tùng). Hoặc giả hình thế núi bốn phía theo lối phía sau như chào, phía trước như đón, bên trái như ngựa được ghì cương, bên phải như cá bơi, sau nằm trước đứng, phải trái vái chào, đều là bốn thế cát lành. Còn nếu núi như quần áo xộc xệch là thế "dâm cổ" (phóng túng nguy hại), như doạng chân xòe tay là thế "phân phách" (chẻ nhỏ), như lưỡi dao sắc nhọn là thế hình thương. Hoặc giả sau gày như que củi, trước rối loạn như rơm, cong quẹo gãy khúc, sau đến trước đi, sau tươi tốt trước tàn úa, trái co phải duỗi, trái tụ phải tán, đề là bốn thế hung. Tam hình là môi trường nhỏ xung quanh huyệt mộ, bao gồm việc khảo sát hai loại địa mạo là dãy núi và thủy đạo. Nếu tứ phía sau, núi trườn tới như con rắn mà có sức sống; hoặc to mập như thân cây, các núi nhỏ hộ vệ nhiều như vô vàn cành lá ; hoặc như bậc đế vương vô cùng oai nghiêm đường bệ; án sơn (núi án ngữ) hoặc đẹp như ngọc bích, hoặc vuông vức như án thư, hoặc hình dáng tươi đẹp thanh tao; dòng nước thì hoặc như cây đàn huyền uốn khúc lững lờ, hoặc dịu dàng ôm ấp, không tiết thoát sinh khí, hoặc trong vắt sâu thẳm đáng yêu. Tam hình thế đều là cát lành. Thế và hình gắn bó mật thiết, thế đến ắt hình dừng, vô hình ắt thế đi. Tứ phụ: Tức Tứ thế. Chỉ hình thế bốn phía trước sau tả hữu. Xem mục Tứ thế tam hình. Tứ ứng tam kỳ: Tức Tứ thế tam hình. Xem mục Tứ thế tam hình. Ngũ thế: Hình thế núi. Chỉ 5 hướng đi khác nhau của mạch núi, dùng để biện Long định huyệt. Mạch núi xuất phát từ phương bắc, Triều sơn từ phương nam đi tới, gọi là Chính thế. Mạch núi xuất phát từ phương tây, định huyệt ở mé bắc của nó, lấy ngọn núi phía nam làm Triều sơn, gọi là Trắc thế. Mạch núi ngược dòng chảy mà đến, Triều sơn thuận theo dòng nước mà tới, gọi là Nghịch thế. Mạch núi thuận dòng chảy mà đi xuống, Triều Sơn ngược dòng nước mà đi lên, gọi là Thuận thế. Mạch núi uốn mình ngoảnh lại, lấy Tổ sơn làm Triều Sơn, gọi là Hồi thế. Căn cứ 5 thế định huyệt, chia ra thuận hướng và ngược hướng thì ngược hướng là quý. Tứ yếu: Địa hình. Chỉ 4 yếu tố lớn trong Phong thủy âm trạch, tức Lai sơn, Khứ thủy, minh đường, Ứng án. Còn gọi là tứ ứng. Xem mục Tứ thế tam hình. Ngũ thổ: 1) Địa hình. Chỉ 5 loại địa hình là Sơn lâm (rừng núi), Xuyên trạch (đầm hồ), Khưu lăng (gò đống), Thủy biên bình địa (đất bằng bên cạnh nước), oa địa (đất trũng). Thời cổ có phép Thổ hội phân biệt cáthung. 2) Đất 5 phương, nói theo ngũ hành. Thuật Phong thủy cho rằng con người là do ngũ thổ xúc kết mà thành, chết đi sẽ trở về với đất. Ngũ thổ cát ắt con cháu tốt lành; ngũ thổ suy ắt con cháu vô phúc. 3) ngoại hình của nhà cửa. Chỉ 5 loại địa hình nhà ở, tức đất (nước) Lương, đất Tấn, đất Lỗ, đất Vệ, đất ở mỗi nước có cát hung khác nhau. Đại địa: 1) Địa hình. Chỉ địa thế ở vùng thôn xóm hoặc huyệt mộ tương đối rộng hoặc có khí thế hùng tráng. Phong thủy dương trạch lấy cự ly từ thủy khẩu đến thôn trấn làm chuẩn; sáu bảy chục dặm, hoặc hai ba chục dặm, sơn thủy hữu tình, hướng vào phía
25
trong, gọi là Đại địa. Cự ly hơn 10 dặm cũng là Đại địa. Nhỏ hơn thì là trung địa, tiểu địa. Phong thủy âm trạch thì bất kể cao thấp, rộng hẹp, vì "Dại địa không nhất thiết ở chỗ rộng lớn" (Quản thị địa lý chỉ mông), cũng bất kể đồng bằng hay đồi núi, chỉ cần khí thế hùng tráng, có thế vô hình, tức là Đại địa. 2) Phong thủy âm trạch coi đất đại cát là Đại địa. Mai táng ở đó thì con cháu sẽ được làm công hầu khanh tướng, đại phú đại quý. Tiểu địa: Địa hình. Chỉ địa thế tương đối nhỏ hẹp ở thôn trấn hoặc huyệt mộ, hoặc có phong cảnh khá đẹp. Phong thủy dương trạch cự ly từ thủy khẩu đến thôn trấn làm chuẩn; cự ly chỉ 1 - 2 dặm, sức chứa không nhiều, là tiểu địa. Phong thủy âm trạch thì chỉ vùng đất hữu tình vô thế, tinh thần tụ hội, là tiểu địa, nhưng bất kể minh đường nhỏ hẹp, địa thế hiểm trở. Bế khí: Địa hình. Sinh khí bế tắc. Chỉ bốn phía xung quanh huyệt mộ, các dãy núi cứ ép sát, che kín như bưng, khiến cho nền đất không thể triển khai, sinh khí bị tắc nghẽn, đại hung. Tàng phong: Địa hình. Tức Tỵ phong (tránh gió). Chỉ xung quanh huyệt mộ được song núi trùng trùng bao che, không cho ác phong (gió độc) thổi vào. Đây là một trong những yêu cầu cơ bản của thuật phong thủy đối với huyệt mộ. Tụ khí: Địa hình. Chỉ xung quanh huyệt mộ được sông núi trùng trùng bao che, không cho gió từ tám phía thổi vào. Là nơi hợp tụ sinh khí, an táng cát lành. Khí khố: Địa hình. Kho chứa sinh khí. Chỉ nơi hợp tụ sinh khí. Thuật phong thủy cho rằng sinh khí gặp thủy ngăn thì dừng lại, nên khí khố thường ở bên bờ dòng nước chảy, mà biểu hiện trên mặt đất là nơi đó hơi nhô cao, như con rắn cất cổ lên lúc giận dữ, như cằm con trâu, mang con cá, tục gọi là Loa tinh. Làm nhà xây mộ ở đó thì đại cát. Phong thành: Địa hình. Tức bức thành chắn gió. Chỉ xung quanh nhà ở hoặc huyệt mộ được sông núi trùng trùng bao che, không cho gió thổi thẳng vào. Đối với thủy khẩu mà nói. Phong thành chuyên chỉ dãy núi đối diện chỗ thủy khẩu. Vì thủy khẩu có chỗ trống như cái cửa, khó bề chịu nổi gió thổi vào, nên cần có dãy núi che chắn đằng trước, tức là cần có Phong thành. Ao phong: Còn gọi là Thung phong. Chỉ gió từ hẻm núi, cửa núi hoặc thung lũng thổi tới. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí gặp gió sẽ tán, cho nên yêu cầu nhà ở, huyệt mộ phải tránh Ao phong thổi ập tới. Nếu bị Ao phong tràn tới, sinh khí sẽ bị tản mác đi hết, tai họa sẽ giáng xuống. Nếu bên trái có Ao phong, sinh con trai đầu lòng bất lợi; nếu bên phải có Ao phong, con trai út sẽ nghèo khổ. Đây là một yêu cầu cơ bản của thuật Phong thủy đối với nhà ở và huyệt mộ. Ngũ bất táng: Năm loại địa hình không cát lành cho việc mai táng, là Ngũ hung sơn: đồng sơn, đoạn sơn, thạch sơn, độc sơn, quá sơn, làm mất cát phúc, sinh ra hung họa không nên mai táng. Có thuyết nói trong đó gồm cả bức sơn, trắc sơn. Đồng sơn: Hình thế núi. Núi không có cây cỏ, trọc lốc, gọi là đồng. Đồng sơn nghĩa là
26
núi hoang không có cây cỏ. Cây cỏ là lông da của Long, núi mà không có lông da thì sinh khí không tụ, ngũ khí bất hòa. Gió dập mưa vùi, đất lở bụi bay, chẳng thể làm huyệt mộ. Nhưng nếu đồng sơn ẩn chứa trong đất đường văn đặc biệt hoặc núi có hình dáng béo mập, là là đất cát lành. Đoạn sơn: Hình thế núi. Mạch núi bị xẻ ngang làm hai phần, bất kể là do nước xối, do làm đường ngang qua, do nông dân san đất làm ruộng, do hầm hố sạt lở, đều là đoạn sơn. Tại đây sinh khí không có cách gì vận hành về phía trước, bị thất thoát không nên mai táng. Nhưng nếu hình dáng của núi trông như bị cắt ngang, thực ra vẫn liền, gọi là "phong yêu" (lưng ong), thì là đất cát lành. Thạch sơn: Hình thế núi, bề mặt núi không có đất, toàn đá cứng lổn nhổn, gọi là thạch sơn. Đất là thịt của Long, sinh khí nhờ đất mà vận hành. Núi đá không có đất tức là không có khí, lại khó bề đào huyệt, nên không thể mai táng. Độc sơn: Hình thế núi. Núi đơn độc một mình, phía trước không có mạch đến,phía sau cũng vậy, hai bên bằng phẳng, gọi là độc sơn. Sinh khí nhờ Long mà hội tụ, độc sơn vô khí, không nên mai táng. Nhưng nếu núi có dáng nhấp ngô, tự thành hình thế, thì là đất cát lành. Quá sơn: Hình thế núi. Mạch núi vượt ngang qua phía trước và phái sau mà chạy đi nơi khác, không thành Tứ thế, là quá sơn. Sinh khí cứ vận hành về phía trước không ngừng, chẳng nên mai táng. Nhưng nếu hai bên có dãy núi hộ vệ, có thể dùng phép Hoành Long hạ táng, thì là đất cát lành. Bức sơn: Hình thế núi. Nhiều núi cao sừng sững tuy có Lai Long, song địa thế lại nhỏ hẹp, không có Minh đường, chẳng thể an táng, gọi là bức sơn. Trắc sơn: Hình thế núi. Mạch núi van vát, chênh vênh, địa thế dốc đứng, không hợp mạch khí, gọi là trắc sơn. Không nên mai táng. Ngũ tinh: Năm loại địa hình. Còn gọi là Ngũ diệu. Vốn chỉ 5 hành tinh lớn là sao Kim, sao Mộc, sao Thủy, sao Hỏa,sao Thổ. Thuật Phong thủy dùng để chỉ các hình dạng cơ bản của ngọn núi và thủy lưu, nên có câu "học địa lý, trước hết là nhận biết ác sao". (Theo Thanh nang hải giác kinh). Là quan sát mô hình cố định về hình dáng cơ bản của sơn thủy. Trên cơ sở đó, lại phối hợp với thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc. Vì sơn thủy có thiên hình vạn trạng, ngũ tinh chẳng thế khái quát nổi, cho nên thường xuất hiện tình hình pha tạp ngũ tinh, như Kim tinh đới thủy, Kim đầu Mộc cưới (đầu Kim chân Mộc), Thủy xung Thổ thành, thượng Kim hạ Thổ. Nói chung lất Kim tinh làm chính, phối hợp với 4 tinh (sao) kia, cần căn cứ tình hình cụ thể mà phân tích xác định các hung. Hình thế núi. Chỉ đỉnh núi mà phần trên vuông tròn. Có câu ca: "Kim tinh hình thể tịnh nhi viên, Cung khởi hỗn như nguyệt bán biên" (Kham dư mạn hưng). Kim tinh nếu có hình dáng, đẹp đẽ, sẽ chủ về con cháu xuất hiện bậc hiền sĩ trung nghĩa, nếu hình dáng cao to hùng vĩ, sẽ chủ về con cháu xuất hiện tướng quân oai nghiêm (hình 130). Kim tinh lại chia thành 3 cách: cao sơn, bình cương, bình địa. Kim tinh cao sơn trông như cái
27
chuông úp, đầu tròn, ngay ngắn, mập mạp, tươi sáng, là cát lành. Kim tinh bình cương trông như cái nón (mũ) chóp tròn, cái chậu ngọc úp sấp, là cát; Kim tinh bình địa trông như cái bánh ngọt vuông vắn, là cát. Mộc tinh: Hình thế núi. Chỉ đỉnh núi cao mà phần trên tù (không nhọn). Có câu ca "Mộc tinh thân lập vạn nhân kinh, Đảo địa nhân khan nhất thụ hoành" (Kham dư mạn hưng). Mộc tinh nếu có thủy ôm ấp, sẽ chủ về con cháu quý hiển; nếu nghiêng lệch sẽ chủ về tai họa (xem hình 131). Mộc tinh lại chia thành 3 cách: cao sơn, bình cương, bình địa. Mộc tinh cao sơn nếâu cao đẹp sừng sững, không nghiêng lệch, là cát; Mộc tinh bình cương nếu cành lá uốn lượng trông như cây roi mềm mại là cát; Mộc tinh bình địa nếu mập tròn, bằng phẳng thẳng thắn, các nháõnh xõa ngang hướng vào nhau, là cát. Thủy tinh. Hình thế núi. Chỉ đỉnh núi uốn mình như con rắn. Có câu ca: "Trướng thiên Thủy tinh lãng giao gia, hoặc lạc bình dương khúc như xà" (Kham dư mạn hưng). Thủy tinh nếu uốn lượn sinh động, ắt phát phúc lâu dài; còn tản mạn lõa xõa thì táng gia bại sản. Thủy tinh lại chia thành 3 cách: cao sơn, bình cương, bình địa. Thủy tinh cao sơn nếu có thể triển khai dài rộng là cát; Thủy tinh bình cương nếu có thế hành vân lưu thủy, dàn trải rõ ràng, là cát; Thủy tinh bình địa nếu có thể sóng nước dập dồn từng lớp, dàn hàng ngang mà tới, là cát. Hỏa tinh: Hình thế núi. Chỉ đỉnh núi mà ngọn nhọn hoắt, cần phải sạch mắt đẹp đẽ, không nghiêng lệch. Hỏa tinh lại chia thành 3 cách: cao sơn, bình cương, bình địa. Hỏa tinh cao sơn nếu ngọn núi như mũi thường chọc thẳng lên trời, là cát. Hỏa tinh bình cương nếu mạch nhánh tỏa ra ngang dọc như lửa phun, là cát. Hỏa tinh bình địa nếu có thế tạt nghiêng rồi lại bốc thẳng như lửa tỏa sáng, là cát. Thổ tinh: Hình thế núi. Chỉ đỉnh núi hình vuông chân chất. Có câu ca: "Thổ tinh cao đại hậu nhi đoạn, Ngưu bối bình phong tổng nhất ban" (Kham dư mạn hưng). Nếu Thổ tinh nằm trên Lai Long, hạ huyệt tại đó sẽ chủ con cháu đời đời làm quan. Thổ tinh lại chia thành 3 cách: cao sơn, bình cương, bình địa. Thổ tinh cao sơn nếu như tấm bình phong dày dặn hùng vĩ, ngay ngắn vuông bức, là cát. Thổ tinh bình cương nếu như là cái hương án đồ sộ vuông vức, không nghiêng lệch, là cát. Thổ tinh bình địa nếu có góc cạnh vuông bức, bằng phẳng đầy đặn, có cao có thấp, là cát. Cửu tinh: Hình thế núi và phương vị. Thời xưa dùng Cửu tinh chỉ bốn phương và ngũ tinh, còn chỉ 7 ngôi sao chòm Bắc Đẩu và phụ tá. Trong thuật phong thủy thì Cửu tinh là 9 sao: Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Phá quân, Tả phù, Hữu bật, để gọi các hình thế núi là diễn hóa từ Ngũ tinh mà ra; nghĩa là ngoài 5 hình thế núi cơ bản, lại đề xuất 9 loại hình thế núi thường gặp, để hướng dẫn hoạt động tìm kiếm trong thuật Phong thủy. Cửu tinh có khi còn chỉ 9 sao: Thái dương, Thái Âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, An não, Song não, Bình não. Thiên canh, mỗi sao lại chia ra 9 thứ: chính thể (thân mình), khai khẩu (há niệng), huyền nhũ (vú treo), cung cước (chân cong), song tý (hai cánh tay), đơn cổ (một đùi), trắc não (bên đầu), một cốt (không xương), bình diện (mặt bằng), cũng là từ ngũ tinh diễn hóa mà ra, nhưng phân biệt cụ thể hơn, để hướng dẫn cách theo sao định huyệt. Cửu tinh cũng dùng để chỉ phương vị, bằng cách phối hợp với 24 sơn, hoặc phối hợp với tràng sinh ngũ hành; hoặc phối hợp với 9 sao: Sinh khí, Thiên
28
y (còn gọi là thiên ất), Phúc đức, Diên niên, Họa hại (còn gọi là Họa hoạn), Lục sát, Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, Bản cung, Thuật phong thủy âm, dương trạch dùng để chỉ phương vị. Trong phong thủy dương trạch, lại lấy cửu tinh tham lang phối hợp với cửu tinh sinh khí để phân chia các gian phòng, quyết định kích thước cao thấp của các tầng trong ngôi nhà. Cửu tinh lại có quan hệ đối chiếu tương sinh tương khắc với ngũ hành, bát quái, ngũ tinh, 12 cung, từ đó xác định cát, hung, theo những phương pháp vô cùng phức tạp. Bát tinh: Tức cửu tinh. Trong thuật Phong thủy, hai sao Tả phù, Hữu bật của cửu tinh Tham lang thường được gọi gộp lại là Phụ Bật, để chỉ phương vị, nên chỉ còn 8 sao (bát tinh) Tham lang: Một trong cửu tinh. Đối ứng với sao Sinh khí, bát quái là Cấn, ngũ hành thuộc Mộc, cát tinh. Trong phong thủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị, trong dương trạch thì ở phương vị sao Tham lang nên xây phòng lớn, nhiều tầng. Cự môn: Một trong cửu tinh. Đối ứng với sao Thiên y (hoặc còn gọi là Thiên ất), bát quái là Tốn ngũ hành thuộc thổ, cát tinh. Trong phong thủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị, trong dương trạch thì ở phương vị sao Cự môn nên xây phòng lớn, nhiều tầng. Văn khúc: Một trong cửu tinh. Đối ứng với sao Phúc đức (hoặc Diên niên), bát quái là Đoài, ngũ hành thuộc kim, cát tinh. Trong Phong thủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị, trong dương trạch thì ở phương vị sao Vũ khúc nên xây phòng lớn, nhiều tầng. Văn khúc là một trong các cửu tinh. Đối ứng với sao Lục sát (hoặc Du hồn), bát quái là Ly, ngũ hành thuộc hỏa, hung tinh. Trong phong thủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị, trong dương trạch thì ở phương vị sao Văn khúc nên xây phòng nhỏ, thấp tầng. Phá quân: Một trong cửu tinh. Đối ứng với sao Tuyệt mệnh, bát quái là Khảm, ngũ hành thuộc thủy, hung tinh. Trong Phong tủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị, trong dương trạch thì ở phương vị sao Phá quân nên xây phòng nhỏ, thấp (ít) tầng. Liêm trinh: Một trong cửu tinh. Đối ứng với sao Ngũ quỉ, bát quái là Chấn, ngũ hành thuộc hỏa, hung tinh. Trong phong thủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị, trong dương trạch thì ở phương vị sao Liêm trinh nên xây phòng nhỏ, ít tầng. Lộc tồn: Một trong cửu tinh. Đối ứng với sao Họa hại (hoặc Tuyệt thể, hoặc Họa hoạn), bát quái là Càn, ngũ hành thuộc thổ, hung tinh. Trong Phong thủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị, trong dương trạch thì ở phương vị sao Lộc tồn nên xây phòng nhỏ, ít tầng. Tả phù : Một trong cửu tinh. Gộp với sao Hữu bật gọi là Phụ Bật. Đối ứng với sao Bản cung (còn gọi là Phục vị, hoặc Phục ngâm), bát quái là Khôn, ngũ hành thuộc mộc, cát
29
hung bất định. Trong Phong thủy âm dương trạch đều dùng chi thay phương vị. Hữu bật : Một trong cửu tinh. Gộp với sao Tả phù gọi là Phụ Bật. Đối ứng với sao Bản cung (còn gọi là Phục vị, hoặc Phục ngâm), bát quái là Khôn, ngũ hành thuộc mộc, cát hung bất định. Trong Phong thủy âm dương trạch đều dùng chỉ thay phương vị. Phụ bật: Một trong cửu tinh. Tức tên gọi gộp hai sao Tả phù và Hữu bật. Gộp với sao Hữu bật gọi là Phụ Bật. Đối ứng với sao Bản cung (con gọi là Phục vị, hoặc Phục ngâm), bát quái là Khôn, ngũ hành thuộc mộc, cát hung bất định. Trong Phong thủy âm trạch thường bị coi là hung tinh; trong dương trạch được coi là tiểu cát. Ở phương vị Phụ Bật có thể mở cổng cửa. Xem mục Tả phù, Hữu bật. Thái âm: Hình thế núi. Chỉ quả núi mà phần trên tron đầy, còn chân núi như cây cung, trông như hình bán nguyệt là biến thể của Kim tinh; nếu có sông hồ ao đầm đối ứng, thì mai táng đại cát, chủ đời sau có thân quyến trong hoàng thất. Thái dương: Hình thế núi. Chỉ quả núi mà phần trên tròn đầy thân núi nhô cao, là biến thể của Kim tinh; nếu hai cánh mở ra, tả hữu hộ vệ , thì mai táng đại cát, chủ đời sau có con cháu làm đến chức tam công. Cách: Hình thế núi. Cách, ngụ ý có cách thức, tiêu chuẩn. Thuật Phong thủy mượn từ này để chi các hình thêm đặc biệt của núi, như các cách : Cửu não phù dung. Hoa cái tam đài, Ngô công tiết. Ngũ tinh là chính thể, cửu tinh là biến thể; cách do cửu tinh diện hóa mà ra, nên gọi là "nhị luyện cách" . Do hình dáng của cách khá đặc biệt, nên nhận biết tinh (sao) thì dễ hơn nhận biết cách. Sự quí tiện cát hung của cách tùy thuộc vào sinh khí dày mỏng và lục lượng lớn nhỏ của Tổ sơn, cho nên có câu "trăm cách không bằng một (ông) tổ" Hoa cái tam tài: Một trong các cách. Chỉ núi có 3 ngọn cùng nhô cao. Cát. Cửu não phù dung: Một trong các cách. Chỉ núi có 9 ngọn sắp thành 1 hàng mà ngọn chính giữa nhô cao hẳn lên. Cát. Đôi giáp: Một trong các cách. Còn gọi là Hoa cái. Chỉ các quả núi trùng điệp mà các đỉnh núi đều tròn trặn, trông như các mai rùa xếp thành mấy lớp chồng lên nhau. Cát. Giác cổ: Một trong các cách. Chỉ các quả núi cùng nhô cao mà đỉnh nhọn hoắt. Cát. Ngô công tiết: Một trong các cách. Chỉ hai bên dãy núi có nhiều mạch nhánh tỏa ra rất cân xứng, như con rết có nhiều chân. Cát. Vương tự: Một trong các cách. Chỉ mạch núi có hình chữ "vương" , đầy đặn ngay ngắn. Cát.
30
Lô hoa tam niễu: Một trong các cách. Chỉ hai bên sườn núi có mấy nhánh sơn cước nhọn hoắt. Cát. Cửu thiên phi bạch: Một trong các cách. Chỉ mạch núi cong tròn linh hoạt, gần giống Thủy tinh mà đầy đặn. Cát Sa : Đia hình. Chỉ dãy núi ở trước sau phải trái Lai Long hoặc chỗ địa thế nổi cao. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí theo Long mà đến, gặp thủy ngăn lại thì dừng, gặp gió thổi ắt tản, cho nên ở phía trước hoặc hai bên Lai Long phải có dãy núi hộ vệ huyệt mộ và nhà ở, để tránh bị gió thổi. Trong đó, sa ở hai bên tả hữu của Long là quan trọng nhất. Sa và Long có quan hệ mật thiết không thể tách rời; không có sa thì Long không có ứng, không có Long thì sa vô chủ; Long là Quân (vua), sa là Thần (bầy tôi), quân thần tương đắc mới là đất cát lành. Sa kết hợp với ngũ tinh, yêu cầu Kim tinh phải tròn mà đẹp, Mộc tinh phải thẳng mà xinh. Hỏa tinh phải nhọn mà sắc, Thủy tinh phải động mà hiền hòa, Thổ tinh phải vuông mà dày. Phàm sa không sinh cây cỏ, không uyển chuyển, cao to lấn át chủ, quay lưng bỏ đi, theo thủy trôi thẳng đi, thì đều là hình thế hung. Sa có 3 cục : phú cục, quí cục, tiện cục. Phú cục là mập mạp, tròn trặn, ngay ngắn quí cục là thanh tú, nhọn sắc, hoa lệ, tiện cục là nghiêng lệch, ung thũng, vụn nát. Sụ phối hợp phương vị hình thế của sa cũng có quy định, như đỉnh núi phương Càn (tây bắc, xem mục Nhị thập tứ sơn) phải thấp nhỏ, chủ gia đạo giàu có; đỉnh núi phương Giáp cao to chủ tai họa dồn dập, đỉnh núi phương Tốn phủ phục mà đỉnh núi phương Tân vút cao, chủ con cháu đỗ đạt rất cao. Sa ở ba phương Cấn, Đoài Tốn nếu hoa lệ, chủ con cháu trường thọ. Tác dụng của sa là ngăn tránh gió và hộ vệ huyệt mộ cùng nhà ở, cho nên sa ơ ûhai bên tả hữu phải hướng vào trong ôm ấp để bảo đảm một môi trường tốt lành. Đồng thời sa cũng quy định rõ ràng về sức chứa của môi trường, là tổng kết kinh nghiệm ngàn vạn năm xây dựng nhà ở và phần mộ. Song cần loại bỏ các yếu tố mê tín về hình dáng và phương vị của sa trong thuật Phong thủy. Trướng mạc : Hình thế núi. Còn gọi là "trướng". Chỉ núi nhỏ xung quanh Lai Long, càng nhiều càng tốt. Ca quyết: "Hảo Long thập tự khuê trung nữ, Trướng mạc tiềm thân bất lộ hình" (Quản thị địa lý chỉ mông ). Chân Long ở giữa, núi nhỏ phía sau có hộ có tống, núi nhỏ hai bên có hộ có vệ, càng có nhiều thứ ấy, thì Long thần càng đại quí, thứ đến trung quí, tiểu quí. Nếu không có trướng mạc )bức mành che), Lai Long cô đơn, là không cát lành. Lai long xuyên trướng mà ra, sinh khí thịnh vượng, đại cát. Nếu trướng chỉ có ở một bên, thì mức độ cát lành kém hơn. Thị sa : Hình thế núi. Chỉ núi nhỏ ở hai bên Minh đường, hình dáng như thị vệ. Trong các loại sa, thị sa có khả năng ngăn chặn ác phong (gió độc) mạnh nhất. Vệ sa : Hình thế núi. Chỉ dãy núi tách ra từ Lai Long ôm ấp Minh đường, hình dáng như vệ sĩ. Chính là "bản thân Long Hổ". Vệ sa vừa có thể thâu tụ sinh khí, vừa có thể ngăn chặn Ao phong, đại cát. Nghênh sa: Hình thế núi. Chỉ dãy núi ở một bên Minh đường mà uyển chuyển ôm ấp lấy phía trong, hình dáng như đón rước vương hầu. Nếu thấp, bằng phẳng, chỉnh tề, như chắp
31
tay cung kính vái chào, thì đại cát. Triều sa Hình thế núi. Chỉ dãy núi sừng sững ở phía trước Minh đường, hình dáng như bái kiến Lai Long; cũng chính là "triều sơn". Triều sa bất luận gần xa, miễn là có hình dáng như trên thì tốt. Long sa : Hình thế núi. Chỉ dãy núi ở bên trái (phía đông) nhà ở hoặc huyệt mộ. Phía đông là Thanh long, nên gọi là Long sa. Yêu cầu Long sa phải cao to, uyển chuyển, ôm lượn, tốt nhất là mạch nhánh tách ra từ Lai Long. Sa lấy hai phía tả hữu làm trọng. Long sa hợp với Hổ sa thành Long Hổ, là mấu chốt của sa. Hổ sa : Hình thế núi. Chỉ dãy núi ở bên phải (phía tây) nhà ở hoặc huyệt mộ. Phía tây là Bạch hổ, nên gọi là Hổ sa. Yêu cầu Hổ sa phải thấp, thuần phục, chiều dài không được nhiều hơn Long sa. Long sa hợp với Hổ sa thành Long Hổ, là mấu chốt của sa. Long hổ: Hình thế núi. Vốn chỉ địa hình hai phương đông, tây, về sau chuyên dùng để chỉ Long sa và Hổ sa. Nằm ở hai bên tả hữu Minh đường, tụ khí chắn gió thật kín đáo. (Xem mục Long sa, Hổ sa). Sau khi Lai Long kết huyệt, nếu tả hữu có mạch nhánh uốn lượn về phía trước, hình thành Long sa và Hổ sa, như cánh cung ôm lấy Minh đường, thì gọi là "Bản thân Long Hổ", nghĩa là cùng một thể với Lai Long, là đất đại cát, chủ con cháu đời sau thi cử đỗ đầu Thượng sa: Hình thế núi. Chỉ dãy núi ở hai bên phải trái, phía trên đầu gió, của nhà ở hoặc huyệt mộ. Do đặc điểm khí hậu và hoàn cảnh địa lý của Trung Quốc, nhà ở và huyệt mộ phần lớn tọa bắc hướng nam, chủ yếu bị ảnh hưởng gió đóng bắc, cho nên Thượng sa nói chung là dãy núi ở phía tay trái (phía đông) của nhà ở và huyệt mộ. Do tác dụng tụ khí chắn gió, nên đòi hỏi Thượng sa phải cao to và ôm bao tương đối dài. Hạ sa: Hình thế núi. Chỉ dãy núi ở hai bên phải trái , phía dưới gió của nhà ở hoặc huyệt mộ. Do đặc điểm khí hậu và hoàn cảnh địa lý của Trung Quốc, nhà ở và huyệt mộ phần lớn tọa bắc hướng nam, chủ yếu bị ảnh hưởng gió đông bắc, cho nên Hạ sa nói chung là dãy núi ở phía tay phải (phía tây) của nhà ở và huyệt mộ. Do tác dụng tụ khí chắn gió, nên đòi hỏi Hạ sa phải thấp ngắn, kỵ cao to ôm vòng. Nếu cách nhà hoặc huyệt mộ từ 600 mét trở lên, thì không cần luận cao thấp dài ngắn. Đại Long hổ: Hình thế núi . Tức Đại Long sa và Đại Hổ sa. Chi 2 mạch nhánh tách ra từ Thái tổ sơn hoặc Thiếu tổ sơn mà chạy về phía trước. Trong đó Long sa cao lớn hơn
32
Hổ sa. Ở bên trong Đại Long Hổ là Đại Minh đường (Ngoại Minh đường). Phụ môn : hình thế núi. Chỉ dãy núi tương đối lớn và xa, ở hai bên phải trái của nhà ở hoặc huyệt mộ. Còn gọi là Ngoại vệ. So với Giáp thất, thì Phụ môn là thế tả hữu, môn (cửa) ở ngoài thất (nhà), cùng Giáp thất hộ vệ huyệt mộ. Phụ môn bên trái có hình dạng nhọn sắc, là Quyền; Phụ môn bên phải có hình dạng nhọn sắc, là Sát. Không cát lành. Giáp thất : Hình thế núi. Chỉ dãy núi tương đối nhỏ và gần, ở hai bên phải trái của nhà ở hoặc huyệt mộ. Còn gọi là Nội sa. So với Phụ môn, thì Giáp thất là hình tả hữu, thất (nhà) ở bên trong môn (cửa), cùng Phụ môn hộ vệ huyệt mộ. Giáp thất nếu có hình dạng nhọn sắc, là Sát, là hung. Ứng sơn : Hình thế núi. Chỉ dãy núi tương đối xa phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ. Vì nó ở bên ngoài án sơn, nên còn gọi là Ngoại án. Xem mục ứng án. Án sơn : Hình thế núi. Chỉ dãy núi tương đối gần ở phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ. Có tác dụng tàng phong (che gió) tụ khí, nếu thấp và lấn gần là cát lành. Án sơn và huyệt mộ có quan hệ như nam với nữ, nam tôn nữ ti (trọng nam khinh nữ), xúc hợp tinh ý. Nếu áp đầu che mắt là hung; nếu thanh tú, nhọn tròn là cát; Hình dáng như Tam đài Ngọc cơ, hoàng cầm cũng là cát; còn ung thũng, vụn nát, hiểm ác, chạy xéo là hung. Án sơn còn chia ra nội ngoại, lấy nhiều lớp làm quý, nếu có từ 3 lớp trở lên, lớp ngoài cùng lại có dáng cát lành, thì phú quí tột bực. Án sơn của dương trạch không giống của âm trạch, lấy khoảng cách tương đối xa mà thấp làm quí, để cho Minh đường thoáng rộng. Ứng án: Hình thế núi. Tức ứng sơn và án sơn. Chỉ dãy núi ở phía trước huyệt mộ hoặc nhà ở. Án sơn ở bên trong, ứng sơn ở bên ngoài, nên gọi là Nội án ngoại ứng. Về thế, yêu cầu ứng sơn đối với Lai Long phải như chủ khách; án sơn đối với Lai Long phải như nam nữ, quan hệ đôi bên phải có tình ý hòa hợp, không gây xung đột. Về hình, yêu cầu ứng án phải ngay ngắn, vuông vức, tròn trặn; nếu nghiêng lệch là tà, xộc thẳng là xung, nhọn sắc thì khó tránh khỏi tai họa, cao to ắt lấn át Lai Long, đều là hung. Triều sơn: Hình thế núi. Chỉ quả núi hoặc mạch núi đối diện khá xa Lai Long, ở bên ngoài ưng án, làm môn hộ cho Minh đường. Triều sơn có 3 hình thế : đến thẳng, nằm ngang, đi xéo. Núi đến thẳng, hai bên có thủy, gọi là " Đặc triều sơn", là quí nhất; núi nằm ngang, có nhiều núi ủng hộ, gọi là "Hoành triều sơn"; núi đi xéo, ngang qua cửa mà khòng vào, gọi là "Ngụy triều sơn", là hung. Nếu có vài mạch núi làm triều sơn, xếp lớp chồng lên cao dần, chủ con cháu quí hiển; nếu các mạch núi lộn xộn, quây quần chen chúc, chủ con cháu rất giàu có. Nếu triều sơn dài hơn Lai Long, gọi là biến thế, trái với tự nhiên; đôi bên dài ngang nhau, gọi là chính thế. Về hình của triều sơn, nếu có 3, 5 đinh núi, nhọn, tròn, đẹp đẽ, là tốt nhất; nếu ngắn, co hoặc lúc ngang qua đột ngột vút cao thì tạm được. Lậu đạo : Địa hình. Tức Phong môn (cửa gió). Chi sơn khẩu (miệng núi) do hai quả núi đối xứng ở hai bên tả hữu trước huyệt tạo nên, sinh khí từ đây bị thất thoát. Ao phong từ
33
chỗ này thổi vào, nên còn gọi là Phong môn. Phạm có Lậu đạo, bên ngoài phải có dãy núi chắn gió, nếu không thì đại hung. Phong môn: Địa hình. Tức Lậu đạo. Xem mục Lậu đạo. Kiềm: Dịa hình. Phía trước hai bên huyệt có dãy núi ôm vòng, hình dạng như cái kìm. Thực tế đó là Long sa và Hổ sa. Yêu cầu đối với Kiềm la sống núi phải bằng phẳng, không có chỗ lõm khuyết; bên trong Kiềm ( tức Minh đường) phải có địa thế bằng phẳng. Nếu một bên của Kiềm thẳng cứng, gọi là Bội kiếm; cả hai bên cùng thẳng, gọi là Thoa cổ; hai bên không ôm lấy phía trong gọi là Phán cung. Kiềm ở phía sau huyệt gọi là Qui cước, đều là hung. Phía ngoài miệng kìm cần có dãy núi cao chắn gió tức là cân co ứng sơn và án sơn, Triều sơn. Nếu mạch nhánh tả hữu của Lai Long ôm ấp nhau mà tạo nên bản thân Kiềm, thì đó chính là "Bản thân Long Hổ" đại cát. Dương trạch ở vùng đồng bằng nói chung không có Kiềm. Tức đạo: Địa hình. Tức Kiềm khẩu (miệng kìm). Chỉ dãy núi hai bên phía trước huyệt ôm vòng, nhưng hai đầu không nối liền với nhau, chỗ đất ở đó gọi là Tức đạo, sinh khí dừng nghỉ tại đây. Còn gọi là Nội khẩu. Có thuyết lấy nội thủy khẩu làm Tức đạo. Lập nhẫn: Hình thế núi. Chỉ xung quanh huyệt mộ có nhiều đỉnh núi cao lớn nhọn sắc. Lập nhẫn chủ con cháu bị hình phạt hung họa. Nếu các đỉnh núi ấy không nhọn thì không ngại. Cô ấn: Hình thế núi. Chỉ xung quanh huyệt mộ chỉ có một quả núi, lại thấp nhỏ. Cô ấn chủ con cháu có người làm cô đồng bà cốt, hung. Nếu quả núi ấy hộ vệ huyệt, thì không ngại. Đô thiên: Hình thế núi. Chỉ đất huyệt do núi cao to giáng thế tạo thành, nói là Đại phong giáng thế, hoặc Đô thiên. Mạch sinh khí đến đây dồn vào huyệt mộ, hạ táng thì cát lành. Hoành thiên: Hình thế núi. Chỉ đất huyệt do nhiều núi cao to giáng thế tạo thành, nói là Chúng phong giáng thế, hoặc Hoành thiên. Các mạch nhánh sinh khí đến đây dồn vào huyệt mộ, hạ táng thì cát lành. Tiên đồng: Hình thế núi. Chi 3 quả núi lớn đứng song song. Hạ táng cát. Ngọc nữ: Hình thế núi. Chỉ 2 quá núi lớn đứng song song. Hạ táng cát. Ngọc liên: Hình thế núi. Chỉ 3 quả núi lớn đứng song song mà quả núi ở giữa có hình dạng vuông vức. Hạ táng cát.
34
Phụng liên: Hình thế núi. Chỉ 3 quả núi lớn đứng song song mà quả núi ở giữa có hình dạng nhọn sắc. Hạ táng cát. Văn trận: Hình thế núi. Chi 6, 7 quả đồi nhỏ tụ tập lại với nhau. Hạ táng cát. Võ trận: Hình thế núi. Chỉ 6, 7 quá núi đá nhỏ tụ tập lại với nhau. Hạ táng cát. Tinh tiết: Hình thế núi. Bất kể núi đá hay đồi đất, chỉ có một quả núi duy nhất đứng thì gọi là Tinh (lá cờ) tiết. Hạ táng cát. Ngư đại: Hình thế núi. Chỉ mộ địa có 2 quá núi cao, một lớn một nhỏ, dáng tròn trặn. Về hình, giống như Kim tinh là cát, chủ con cháu đại qui hiển. Nếu nhọn sắc như Hỏa tinh, chủ đời sau con cháu làm đồng cốt, lang băm. Nếu dài và gãy như Mộc tinh, hoặc mỏng nhẹ như Thủy tinh, chủ con cháu dâm đãng, bán tiện. Phân thi : Hình thế núi. Chỉ án sơn có hình dạng vụn nát, có chỗ khuyết. Đại hung. Phúc thi : Hình thế núi. Chỉ ở Thủy khẩu, núi có hình dạng như chiếc thuyền lật úp. Đại hung. La tinh : 1) Hình thế núi. Chỉ quả núi cao lớn uốn minh bên bờ thủy khầu. Vì nó che đỡ thủy khẩu, tụ khí chắn gió, nên còn gọi là La thành. 2) Xây dựng. Ở vùng đồng bằng thủy khẩu không có núi, người ta đắp đất thành gò, thành bãi ở trong nước, gọi đó là La tinh châu; rồi xây dựng trên đó đền miếu, lầu các để che chắn thủy khẩu. Sư tượng giao nha : Hình thế núi. Chỉ 2 quả núi ở hai bên thủy khẩu. Một quả là núi sư tử một quả là núi voi, đối diện nhau, cách nhau bởi dòng nước, hộ vệ hai bên. Có tác dụng bảo vệ sinh khí, che chắn Ao phong, là môn hộ của thủy khẩu. Vọng khí: Tức vọng khí tầm Long (nhìn khí tìm Long). Quan sát khí sông núi bốc lên, nhận biết hình dạng thực sự, để xác định cát hung của vùng đất. Vọng khí có thời gian hạn chế. Có thuyết nói, chỉ vọng khí trong khoảng thời gian từ Đông chí đến Hạ chí, vào lúc sáng sớm, chiều tối hoặc sau khi tạnh mưa; có thuyết nói chỉ vọng khí trước khi mặt trời mọc 2 khắc rưỡi (tương đương 45 phút ngày nay), hoặc sau khi mặt trời lặn 2 khắc rưỡi; trong thời gian đó, sinh khí của sông núi thịnh vượng, bàng bạc bốc lên, thể hiện màu sắc và hình dạng khác nhau; quan sát lúc ấy mới có thể xác định cát hung. Hình và sắc của khí có tiêu chuẩn cố định. Hình như Cầm, chủ con cháu trọng văn; hình như Thú, chủ con cháu thượng võ. Có thuyết nói nếu hình như cổng đá, nhà lầu, nhà kho, thì ở đó có thể xây dựng đô thị, nhỏ hơn thì xây dựng thôn ấp. Có thuyết nói có khí thiên tử, trong đỏ ngoài vàng, uất ở trong mà bốc lên, như cổng thành, như cái lọng, là khí vượng, nơi đó sẽ xuất hiện bậc đế vương, công hầu. Lại có khí tể tướng, lấp lánh màu đỏ như sao, hình dáng như cái cầu vồng, hoặc trong trắng ngoài vàng, hoặc trước xanh sau tím, thì đất ấy xuất hiện thừa tướng. Có khi mãnh tướng, như doanh trại huyên náo, như cung nỏ, trong
35
trắng ngoài đỏ, giữa xanh dưới đen, đất này sinh ra đại tướng nguyên soái. Có khí không lành, hình dạng như đá lở bụi bay, như cỏ rối áo nhàu, tứ tán điêu linh, là đất hung. Hoặc đỉnh núi có quầng khí màu tím như cái lọng, khói xanh trôi nổi, đất đá không bị xói lở, cây cối rậm rạp, suối ngọt tràn trề là sinh khí mới lên chưa vượng. Nếu khí mây không bốc lên, đát khô đá lở, cây cỏ không đều, màu sắc ảm đạm nguồn suối cạn khô, là sinh khí không tụ, dựng nhà xây mộ thì đại hung. Khí tụ thành mây ở ngang sườn núi mà bốc thẳng lên đỉnh núi, như hình chiếc ô thì mới là Chân khí. Thanh tú là quí, béo mập mà thô là phú, đoan chính là nghĩa, xéo lệch là võ; màu sắc thì đỏ, vàng là lành; xanh, trắng, đen thì kém hơn. Sơn thanh : Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí trong mạch núi thịnh vượng thì xao động thành tiếng, gọi là Sơn thanh. Núi cỏ sơn thanh chứng tỏ sinh khí dưới đất cực vượng, hạ táng đại cát, chu con cháu thi cử đỗ đầu. Nếu âm thanh là do yêu tà phát ra, thì hung. Hát hình : Hát, nghĩa là tiếng kêu, tiếng hét. Chỉ căn cứ vào hình dáng của các quả núi ở xung quanh thôn trấn hoặc nhà ở mà đem ví các động vật hoặc sự vật, để từ đó xác định cát hung. Ví dụ có các hình sư tử, voi, rùa, rắn, phượng hoàng, hổ, rồng, hạc, cua, lưỡi câu, mặt trăng, lưới, bong bóng. Lối ví von này có tác dụng đơn giản hóa và thông tục hóa vô số hình dạng phúc tạp của núi, khiến người ta dễ hiểu và chấp nhận. Tứ linh: Vốn chỉ 4 con thú đẹp là long, lân, qui, phượng; cũng chỉ 4 con thú đẹp khác là thanh long (rồng xanh), bạch hổ ( hổ trắng). chu tước (chim sẻ đỏ ), huyền vũ. Truyền thuyết dùng tứ đế làm tứ linh, tức Thương đế, Hoàng đế, Bạch đế, Hắc đế. Thuật Phong thuỷ thì lấy Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ làm tứ linh để chỉ địa hình bốn phương. Xem mục Tứ thú. Tứ thú: Tức 4 con thú đẹp là thanh long (rồng xanh), bạch hổ (hổ trắng), chu tước (chim sẻ đỏ) huyền vũ. Được ghi chép sớm nhất trong Lễ ký, nguyên chỉ 4 phương đông, tây, nam, bắc. Thuật Phong thủy thì lấy Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ làm tứ linh để chỉ địa hình bốn phương đông, tây, nam, bắc; là một trong những khái niệm quan trọng nhất. Do âm dương trạch phần lớn là tọa bắc hướng nam, nên lại ]ấy bên trái (tả) làm Thanh long, bên phải (hữu) làm Bạch hổ, phía sau là Huyền vũ, phía trước là Chu tước. Địa thế 4 phía hòa hợp thì cát, không hòa hợp thì hung. Xem mục Tứ linh. Ngũ thú: Ngoài Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ, còn thêm Phượng hoàng thành 5 con thú. Tứ thú ở 4 phía, con người ở giữa, màu vàng, ngũ hành thuộc thổ, có được đầy đủ ngũ khỉ; ma phượng hòang thì lông có 5 màu, nên giống như con người ở trung tâm, thường thường dùng để chỉ huyệt mộ hoặc Minh đường. Tứ linh thuyết: Thuyết lấy tứ linh chỉ địa hình 4 phương, đồng thời qui định tiêu chuẩn tương quan. Bắt đầu từ thời Tam quốc; là một trong những khái niệm quan trọng nhất của thuật Phong thủy. Thời cổ dùng tứ linh chỉ 4 phương, thời Xuân Thu Chiến Quốc áp dụng tứ linh vào lĩnh vực quân sự, chỉ đội hình thế trận 4 phía. Thời Tam quốc Tào Ngụy, Quản Lộ là người đầu tiên dùng tứ linh miêu tả địa hình bốn phía. Lúc đi qua bãi tha ma, ông nói: "Huyền vũ rụt đầu, Thương (hoặc Thanh) long cụt chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu
36
tước khóc than, đủ cả 4 cái nguy cho cả dòng tộc" (Tam quốc chí. Ngụy chí. Quản lộ truyện). Sau đó các trước tác Phong thủy suy diễn và hoàn thiện thuyết Tứ linh trở thành mô hình cố định mà thuật Phong thủy dùng để miêu tả địa hình địa mạo xung quanh nhà ở và huyệt mộ. Thoạt tiên chỉ miêu tả hình thế núi đồi, ở miền Nam chủ yếu chỉ thủy lưu , về sau mở rộng ra miêu tả hình dạng và hướng chảy của thủy lưu bốn phía, thậm chí dùng để miêu tả cả cảnh vật tụ nhiên hoặc các công trình xây dựng khác, phạm vi ứng dụng ngày càng rộng. Đồng thời, có quan hệ mật thiết với thiên văn, ngu hành, âm luật. Phù hợp mô hình thì cát, không phù hợp mô hình thì hung. Tiêu chuẩn thẩm định địa hình 4 phía theo thuyết nay là : "Huyền vũ cúi đầu, Chu tước bay lượn, Thanh long uốn mình, Bạch hổ thuần phục" (Táng thư). Không phù hợp tiêu chuẩn ấy thì táng gia bại sản. Trong đó, Huyền vũ chỉ Lai Long (mạch núi) ở phía sau lưng (phía bắc), yêu cầu là tới đây phải dửng lại, tử cao xuống thấp dần, qua vùng đất dốc hoặc bằng phẳng, nên nói là phải "cúi đầu". Chu tước chỉ thủy lưu ở phía trước (phương nam), yêu cầu phải vắt qua theo hướng đông tây, hoặc 2 dòng chảy giao nhau, êm ả có tình, uốn lượn mà đi, nên nói là phải bay lượn. Thanh long chỉ dãy núi bên trái (phía đông), như cánh tay Lao vệ, nên nói là phải "uốn mình". Bạch hổ chỉ dãy núi bên phải (phía tây), yêu cầu nhu thuận lại cần ngắn hơn Thanh long một chút, nên nói là phải "thần phục". Thủy lưu bốn phía yêu cầu phải có mô hình uốn khúc ôm ấp mới là tốt, nếu xối thẳng hoặc quay lưng lại là hung. Những qui định của thuyết Tứ linh về địa hình bốn phía xung quanh nhà ở và huyệt mộ phản ánh thái độ của người thời xưa coi trọng môi trường sinh sống, song cũng chứa dựng màu sắc thần bí. Thanh long : Một trong các con thú đẹp thời cổ. Còn chỉ sao Thái tuế, tên gọi chung 7 tinh tú trên bầu trời phía đông. Thời xưa, khi hành quân, hình vẽ Thanh long trên cờ hiệu chỉ đó là phía đông. Thuật Phong thủy lấy Thanh long làm phương đông hoặc địa hình bên trái, thuộc lân trùng, về ngũ hành thuộc mộc, về màu là xanh, về ngũ tạng là gan, về can chi là Giáp dần. Núi Thanh long lấy uốn mình ôm vòng là cát; sa Thanh long lấy cao lớn không khuyết làm cát lành; Thủy Thanh long lấy uốn khúc ôm ấp làm cát. Phía đông nhà ở có lưu thủy cũng nói là có Thanh long, cát. Chu tước : Một trong các con thú đẹp thời cổ. Còn gọi là Chu điểu. Tên gọi chung 7 tinh tú trên bầu trời phía nam. Thời xưa, khi hành quân, hình vẽ Chu tước trên cờ hiệu chỉ đó là phía nam. Thuật Phong thủy lấy Chu tước làm phương nam hoặc địa hình phía trước, thuộc vũ trùng, về ngũ hành thuộc hỏa, về màu sắc là đỏ, về ngũ tạng là tim, về can chi là Bính Ngọ. Chu tước chuyên chỉ thủy lưu ở phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ, nếu dừng tụ sinh khí, uốn lượn có tình, ôm ấp phía trong, là cát. Thế núi phía nam cũng gọi là Chu tước. Phía nam nhà ở có hồ ao là Chu tước, cát
37
Bạch hổ : Một trong các con thu đẹp thời cổ. Tên gọi chung 7 tinh tú trên bầu trời phía tây. Thời xưa, khi hành quân, hình vẽ Thanh long trên cờ hiệu chỉ đó là phía tây. Thuật Phong thuỷ lấy Bạch hổ làm hướng tây hoặc địa hình bên phải, thuộc mao trùng, về ngũ hành thuộc kim, về màu là trắng, về ngũ tạng là phổi, về can chi là Canh Thân. Núi Bạch hổ lấy thừa phục làm cát; sa Bạch hổ lấy thấp nhỏ làm cát; thủy Bạch hổ lấy ôm vòng như dây lưng là cát. Phía tây nhà ở có đường đi là Bạch hổ, cát. Huyền vũ: Một trong các con thú đẹp thời cổ. Tên gọi chung 7 tinh tú trên bâu trời phía bắc. Còn chỉ thần Thái âm ở phương bắc. Thuật Phong thủy lấy Huyền vũ làm phương bắc hoác địa hình phía sau lưng, thuộc giới trùng, về ngũ hành thuộc thủy, về màu là đen, về ngũ tạng là thận, về can chi là Nhâm Tí. Núi Huyền vũ, tức Lai Long ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ, lấy hình thế cúi đầu làm cát, thủy Huyền vũ lấy nhiều lớp ôm ấp làm cát. Phía sau nhà ở có gò, đống cũng gọi là có Huyền vũ, cát. Phượng hoàng: Một trong các con thú hoặc chim đẹp thời cổ. Thuật Phong thủy lấy 4 con thú cư ở 4 phương, còn con người thì ở trung tâm, có được đầy đủ ngũ khí. Loài người là khỏa trùng, về ngũ hành thuộc thổ, về màu sắc là vàng, về thiên can la Mậu Kỷ. Nhưng người không thể ngang hàng với 4 con thú, lông phượng hoàng có đủ 5 màu, nên dung nó ví với con người cư ở trung tâm tức là chính nơi nhà ở hoặc huyệt mộ sở tại. Thanh long đố chủ: Địa hình phía đông. Chỉ dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ có hình dạng như kẻ ngồi xổm, ngang ngạnh không thuần phục, không uốn lượn về phía trước sang bên phải để bảo vệ huyệt mộ. Hung. Thanh long bạn đầu: Địa hình phía đông. Chỉ phân cuối cùng của dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ lại nhô cao lên như thể con rồng ương ngạnh không chịu thuần phục. Hung. Thanh long quán địch: Địa hình phía đông. Quản địch, nghĩa là hình dạng như cái ống sáo, cái khèn. Chỉ dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ chúc thấp xuống rồi nằm ngang. Hung. Thanh long chiết yêu: Địa hình phía đông. Chỉ đoạn giữa của dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ có chỗ khuyết trên sống lưng, giống như rồng bị gãy lưng, Ao phong có thể thừa cơ thổi thẳng vào huyệt mộ. Hung. Thanh long trịch bút: Địa hình phía đông. Chỉ dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ đâm xéo, không uốn lượn sang phía tây, tựa hồ vàn nhân quẳng cây bút đi. Hung. Thanh long đông khứ: Địa hình phía đông. Chỉ dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ
38
vòng sang phía đông, chứ không vòng sang phía tây để bảo vệ huyệt mộ. Hung. Thanh long hào cơ: Địa hình phía đông. Chỉ phần cuối cùng của dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ có chỗ khuyết, tựa hồ há miệng kêu đói (hào cơ nghĩa là kêu đói) Hung. Thanh long đới nhẫn: Địa hình phía đóng. Chỉ dãy núi ở bên trái (phía đông) huyệt mộ có hình dạng nhọn sắc như mũi dao chọc thẳng. Hung. Chu tước thi đảo: Địa hình phía nam. Chỉ thủy lưu ở phía trước (phía nam) huyệt mộ chảy ngang qua như một cái xác chết trôi úp sấp. Hung. Chu tước sinh giác: Địa hình phía nam. Chỉ thủy lưu ở phía trước (phía nam) huyệt mộ có mỏm đá nhô lên, giống như mọc sừng ở trên đầu. Hung. Chu tước chiết dực: Địa hình phía nam. Chỉ thủy lưu ở phía trước (phía nam) huyệt mộ bỗng đột ngột cháy ngoặt như bị gãy thành khúc, tựa hồ con chim gãy cánh. Hung. Chu tước thướng sơn: Địa hình phía nam. Chỉ thủy lưu ở phía trước (phía nam) huyệt mộ chảy ở địa thế rất cao, lấn át Lai Long ở phương bắc. Hung. Chu tước loạn y: Địa hình phía nam. Chỉ thủy lưu ở phía trước (phía nam) huyệt mộ chảy tản mạn vô trật tự giống như quần áo tơi tả xộc xệch. Hung. Chu tước phụ soa: Địa hình phía nam. Soa, nghĩa là cái áo tơi. Chỉ thủy lưu ở phía trước (phía nam) huyệt mộ chảy tản mạn thành các dòng nhỏ bé, trông như cái áo tơi ngày xưa. Hung. Chu tước bi khốc: Địa hình phía nam. Chỉ thủy lưu ở phía trước (phía nam) huyệt mộ chảy xiết, phát ra tiếng réo như đang than khóc, thì biết địa thế nơi này hiểm trở. Hung. Bạch hổ khúc xích: Địa hình phía tây. Khúc xích, nghĩa là cái thước cuộn. Chỉ dãy núi ở bên phải (phía tây) huyệt mộ có hình dạng như cái thước cuộn, mà không uốn khúc ôm ấp phía trong. Hung. Bạch hổ phá não: Địa hình phía tây. Chỉ phần cuối cùng của dãy núi ở bên phải (phía tây) huyệt mộ có chỗ khuyết, tựa hồ con hổ bị vỡ đầu. Hung. Bạch hổ thúc cước: Địa hình phía tây. Chỉ dãy núi ở bên phải (phía tây) huyệt mộ có hình dạng thẳng cứng, độ dốc không đều, lại không ôm lấy phía trong. Hung. Bạch hổ đới nhẫn: Địa hình phía tây. Chỉ dãy núi ở bên phải (phía tây) huyệt mộ có hình dạng nhọn sắc, như mũi dao chọc thẳng. Hung. Bạch hổ tây bôn: Địa hình phía tây. Chi dãy núi ở bên phải (phía tây) huyệt mộ ngoặt sang phía tây, chứ không vòng sang phía đông để bảo vệ huyệt mộ. Hung.
39
Bạch hổ phao đao: Địa hình phía tây. Chỉ dãy núi ở bên phải (phía tây) huyệt mộ chạy xéo sang hướng tây nam, như thể võ sĩ quẳng đao đi, chủ con cháu bị họa hình thương. Hung. Bạch hổ hàm thi: Địa hình phía tây. Chỉ dãy núi ở bên phải (phía tây) huyệt mộ có hình dạng nhu con hổ ngồi chồm hổm, hoặc ở phần cuối của dãy núi có chỗ khuyết, trông như con hổ há miệng thật to để ngậm xác. Hung. Huyền vũ bạng khai: Địa hình phía bắc. Bạng, nghĩa là thịt ở vùng lưng. Chỉ trên sống lưng phần cuối của Lai Long ở phía sau (phía bắc ) huyệt mộ có chỗ khuyết hở, giống như con rùa bị mổ bụng; sinh khí từ chỗ ấy tiết thoát ra ngoài. Hung. Huyền vũ âu niệu : Địa hình phía bắc. Chỉ phần cuối của Lai Long ở phía sau (phía bắc ) huyệt mộ có lưu thủy chảy tán loạn, như con rùa vãi nước tiểu tung tóe, sinh khí từ chỗ ấy tiết thoát ra. Hung. Huyền vũ thổ thiệt : Địa hình phía bắc. Chỉ phần cuối của Lai Long ở phía sau (phía bắc ) huyệt mộ chìa ra như con rùa thè lưỡi. Hung. Huyền vũ cự thi : Địa hình phía bắc. Chỉ phần cuối của Lai Long ở phía sau (phía bắc ) huyệt mộ không hạ thấp dần, hoặc ngoảnh đấu đi chỗ khác, hoặc có vách cao hiểm trở, khiến không có cách gì tìm được vị trí rộng rãi cho huyệt mộ, nên gọi là Cự thi (đẩy xác). Hung. Huyền vũ xuất thủy : Địa hình phía bắc. Chỉ phần cuối của Lai Long ở phía sau (phía bắc) huyệt mộ bị rất nhiều quả núi nhỏ che chắn giống như lúc con rùa lội xuống nước gây ra các gợn sóng. Hung. Huyền vũ thùy vĩ : Địa linh phía bắc. Chỉ phần cuối của Lai Long ở phía sau ( phía bắc) huyệt mộ có hình dạng quá nhỏ, nhọn trông như cái đuôi con rùa, thậm chí không còn chỗ nào dung nạp huyệt mộ. Hung. Huyền vũ đài đầu: Địa hình phía bắc. Chỉ phần cuối của Lai Long ở phía sau (phía bắc ) huyệt mộ không hạ thấp dần mà lại vươn cao đầu, tựa như con rùa ngẩng cao đầu, sinh khí không tụ ở nơi này. Hung. Huyền vũ đảo bút: Địa hình phía bắc. Chỉ Lai Long ở phía sau (phía bắc) huyệt mộ có chỗ tận cùng chọc thẳng lên như cây bút, chứ không hạ thấp xuống từ từ, trông tựa như cái quản bút. Hung. Huyền vũ trảm đầu: Địa hình phía bắc. Chỉ phần cuối của Lai Long ở phía sau (phía bắc) huyệt mộ đột nhiên cụt ngủn, chứ không hạ thấp dần một cách tự nhiên, giống
40
như con rùa rụt đầu vào trong mai. Hung. Minh đường: Địa hình. Vốn chỉ công trình kiến trúc, nơi thời xưa vua chúa tuyên đọc chiếu chỉ. Cũng là tên một ngôi sao. Thuật Phong thủy chuyên dùng để chỉ nơi sinh khí tụ hợp ở trước huyệt mộ hoặc nhà ở. Phạm vi của nó tùy giới hạn của hai sa tả hữu và Triều, Án sơn; Minh đường nằm ở trung tâm. Yêu cầu đối với Minh đường trước tiên là phải tàng phong tụ khí, nghĩa là chắn gió từ bên ngoài thổi vào và hội tụ sinh khí ở bên trong. Cho nên bốn phía cần có nhiều lớp núi che đỡ, hình dáng như bức tường thành, chân núi mé trong không được sắc nhọn chĩa thẳng vào Minh đường. Tiếp đó, yêu cầu bản thân Minh đường phải bằng phẳng, ky có gò đất, đá cứng hoặc lồi lõm, không nên có kiến trúc đền đài. Đất này lại phải sạch sẽ, tức là không mọc gai góc, cỏ cây không được dày đặc, phải sáng sủa và thông thoáng. Thứ nữa, Minh đường phải là đất tụ nước, cần có thủy 1ưu theo Long mà chảy tới giao nhau bên trong Minh đường, phía trước huyệt mộ. Bên ngoài Minh đường cần có sông ngòi mương máng, ao hồ vắt ngang qua đằng trước Minh đường. Nếu thủy lưu xối thẳng tới Minh đường là hung. Trong Phong thủy âm trạch, Minh đường chia ra các loại : đại Minh đường, trung Minh đường, tiểu Minh đường, nội Minh đường, ngoại Minh đường, yêu cầu mỗi loại có khác nhau đôi chút. Trong Phong thủy dương trạch, Minh đường chủ yếu chỉ phạm vi phía trước cổng nhà ở, yêu cầu phải bằng phẳng, rộng rãi, như câu "Minh đường có thể chứa vạn con ngựa" (Dương trạch thập thư). Hai sa tả hữu và Ứng, Án có thể có hoặc không có; nếu có, tốt nhất là cách tương đối gần. Minh đường là phần tất yếu phải kiến tạo đối với huyệt mộ và nhà ở. Thuật Phong thủy đề ra một số nguyên tắc, như chắn gió, sáng sủa, tiện lợi là các yếu tố hợp lý. Đại minh đường: Địa hình. Chỉ Lai Long từ Thái tổ hoặc Thiếu tổ tách ra 2 mạch nhánh, tức Song sa và Hổ sa, ở phía trước có 2 dòng thủy lưu hội hợp là giới hạn, hoặc có Triều thủy từ ngoài xa chảy tới làm giới hạn; hoặc lấy án sơn, ứng sơn làm giới hạn, thì mảnh đất nằm giữa gọi là Đại minh đường, hoặc còn gọi là Ngoại dương đại minh đường. Đại minh đường cùng với Trung minh đường tạo thành 2 lớp bảo vệ huyệt mộ, thực tế là Ngoại minh đường. Trung minh đường: Địa hình. Chỉ nơi có 2 dòng thủy lưu hội hợp ở phía trước huyệt mộ, ở giữa 2 sa tả hữu nhỏ hơn Đại minh đương, nên gọi là Trung minh đường, thực tế là Nội minh đường. Trong 3 Minh đường : Đại, Trung, Tiểu, thì Đại minh đường là quan trọng nhất, bảo vệ phải nghiêm mật nhất, tụ thủy phải đầy đủ, thì mới chắn gió thổi vào và không để sinh khí tiết thoát đi. Tiểu minh đường: Địa hình. Chỉ mảnh đất phía trước huyệt mộ chỉ vừa đủ chỗ cho một người nằm, hai bên có sa Thiền dực (cánh ve) bảo vệ, đằng trước có thủy Hà tu (râu tôm) hội hợp, chứng tỏ khí mạch hội tụ tại đây. Phía sau Tiểu minh đường là vị trí huyệt mộ, nếu không có Tiểu minh đường thì khó bề định huyệt. Ngoại minh đường: Địa hình. Chỉ mảnh đất nằm ở giữa 2 mạch nhánh tách ra từ Thái tổ hoặc Thiếu tổ Lai Long (tức Long sa và Hổ sa), phía bên trong Triều sơn hoặc Triều thủy; thực tế đó chính là Đại minh đường. Ngoại minh đường nằm ở phía ngoài Nội minh
41
đường. Thuật Phong thủy coi Nội minh đường là vị trí ở bên trong, nhỏ hẹp hơn, tựa như cai giếng; còn Ngoại minh đường thì ở ngoài, rộng lớn hơn, tựa như cái hồ. Nội minh đường: Địa hình. Tức Minh đường nói chung trong Phong thuỷ âm trạch . Chỉ mảnh đất nằm giữa hai sa tả hữu và án sơn, vì nằm ở phía trong Ngoại minh đường nên gọi là Nội minh đường. Gọi tắt là Nội đường. Xem mục Minh đường. Sa thành: Địa hình. Chỉ con mương vắt ngang qua phía trước huyệt mộ được đất đá lấp đầy, nhằm làm cho địa thế trong Minh đường trở nên bằng phẳng. HUYỆT MỘ, HUYỆT PHÁP VÀ TÁNG PHÁP Huyệt : Địa hình. Chỉ huyệt mộ hoặc mảnh đất sở tại, nơi tận cùng của Lai Long, sinh khí hội tụ, có hai sa tả hữu bảo vệ, có thủy ngăn lại phía trước. Huyệt quan hệ mật thiết với mạch khí, hơi xê dịch, tức là thoát sinh khí. Phép định huyệt vô cùng phúc tạp. Trước tiên phái xác định vị trí hai bên cao thấp, tiếp đó nhận đúng tọa hướng, thứ ba là phải phối hợp với hình thế bốn phía; bốn là xác định độ nông sâu thích đáng. Nguyên tắc chung là vừa có được sinh khí nuôi dưỡng, vừa tránh ba cái hại là bị gió thổi, nước xối và kiến đục. Có rất nhiều yêu cầu cụ thể, ví dụ, huyệt ắt phải có môi, tức Táng khẩu, phải có trán, tức Cầu thiềm; phải có hai thủy giao hợp, tức thủy Hà tu và thủy Hợp khâm. Do Lai Long, hai sa Long Hổ và ứng án phía trước có hình dạng khác nhau, huyệt cũng phải có vị trí biến đổi tương ứng, nên có khi huyệt ở đỉnh núi, ở sườn núi, ở chân núi, lại khác nhau như trực thụ, trắc thụ, nghịch thụ. Huyệt cao không nên chênh vênh, huyệt thấp không nên lặn mất; huyệt nổi rõ không nên vội vã; huyệt tĩnh không nên huyên náo. Huyệt của núi cao, ắt phải ở chỗ hơi lõm; huyệt tại vùng đồng bằng, nên ở chỗ hơi nhô cao. Hình của huyệt hoặc hiền như hoa, căng như nỏ, hoặc như bàn tay để ngửa, như miệng hổ, hoặc như vú xệ, như lỗ rốn... Trong một vài trường hợp cũng có thể dùng sức người cải tạo địa hình cho phù hợp với yêu cầu kết huyệt. Mục đích cuối cùng của hàng loạt hoạt động Phong thủy âm trạch là tìm cho được huyệt địa lý tương, phương pháp vô cùng phức tạp, gắn liền với cát hung họa phúc. Ngoài nội dung mê tín, một số phương pháp rất chú trọng việc báo vệ thi thể và môi trường tự nhiên. Thổ huyệt : Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt trên núi đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm thấp, tơi tả thì hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu vàng thì cát. Thạch huyệt : Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất đá cứng khô là hung. Bối tù chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sườn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở đó sẽ bị kiến đục và nước xối lở, không cát lành. Đằng lậu chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo vệ không
42
chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi, không cát lành. Bất cập chi huyệt : Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trước không có án sơn, triều sơn, khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung. Bất súc Chi huyệt : Chỉ huyệt mộ nằm ở chỗ không có mạch núi bảo vệ, gió cứ thổi thốc vào, khiến xương cốt mau bị hủy hoại, hung. Tứ trấn thập tọa: Huyệt pháp. Tức căn cứ hình thế của Lai Long để xác định chỗ đặt huyệt mộ. Trấn, nghĩa là trấn thủ; tọa, nghĩa là tọa lạc. Tứ trấn tức là trấn đầu Long, trấn gáy Long, trấn bụng Long, trấn chân Long (có khi nói là trấn lưng Long). Tức là căn cứ hình thế hướng đi của mạch núi mà lựa chọn bộ vị tọa lạc của huyệt mộ. Nói chung, Long chạy thẳng đến, trấn đầu Long, tức là huyệt ở chỗ tận cùng, còn gọi là Tông Long. Long nằm ngang, trấn gáy Long, tức là huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, nên gọi là huyệt bám vào sống núi, hoặc Phán Long. Long cuộn khúc, trấn bụng Long, tức là huyệt ở chỗ đầu ngoảnh nhìn lại phía trong sườn núi, còn gọi là Ky Long. Long cao to bàng bạc, trấn chân Long, tức là huyệt ở chân núi, còn gọi là Thửa Long. Do "tứ trấn" mà sinh "thập tọa". Trấn đầu Long ắt tọa tai Long, mũi Long, trán Long, bờm Long; mà tránh đuôi Long, sừng Long, răng Long, mắt Long. Trấn gáy Long, ắt tọa vai Long, gáy Long; mà tránh lưng Long, cổ Long. Trấn bụng Long ắt tọa rốn Long, vú Long; mà tránh ngang lưng Long, sườn Long. Trấn chân Long ắt tọa cổ tay Long , mắt cá chân Long; mà tránh khuỷu chân Long, móng chân Long. Có nhiều tiêu chuẩn nói về tứ trấn thập tọa khác nhau đôi chút, lại có thuyết nói thập nhị tọa, thực ra đều biểu thị một cách hình tượng sự lựa chọn bộ vị tốt nhất để định huyệt. Tông long : Huyệt pháp. Mạch núi từ xa chạy thẳng tới định huyệt ở chỗ tận cùng của mạch, thì gọi là Tông Long, hoặc trấn đầu Long. Hình của nó như nhụy hoa, trông ngay ngắn. Ky phía trước Lai Long không có dãy núi che chở, bị ác phong thổi thẳng vào làm tiêu tán sinh khí. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Kỵ long : Huyệt pháp. Mạch núi quay đầu ngoảnh lại nhìn phía đuôi, trông như vòng tròn, định huyệt ở chỗ lõm núi mà đầu Long quay lại, lấy đuôi Long làm án sơn, thì gọi là Ky Long, hoặc trấn bụng Long. Hình của nó trông như gian chính của tòa nhà, phía trước huyệt có dãy núi chắn gió. Kỵ đối diện với sơn khẩu, gọi là "Kiềm lưu trực huyền", nghĩa là dãy núi hai bên dốc thẳng xuống, sinh khí theo đó mà thất thoát hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Phán long : Huyệt pháp. Mạch núi chạy ngang, thẳng về phía trước, không quay đầu nhìn lại, định huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, thì gọi là Phán Long, hoặc trấn gáy Long. Hình của nó giống như huyệt Kiên tỉnh lúc thân người đang nằm. Tối kỵ không có huyệt Kiên tỉnh và Hạ sa không ôm vòng, thủy Bát tự (thủy hình chữ "bát") không tụ lại, không có sinh khí, hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Thừa long : Huyệt pháp. Mạch núi cao to bàng bạc, nhấp nhô tiến tới; định huyệt ở khoảng giữa chân núi và vùng đồng bằng, thì gọi là Thừa Long, hoặc trấn chân Long.
43
Hình của nó như ánh mắt lờ đờ, ngụ ý thế núi đã hết, nhưng mạch khí vẫn còn, ở chỗ đất bằng tuy khó tìm dấu vết, song vẫn là đất lành. Ky mất thế mất mạch, cô đơn không chỗ dựa. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Tam đình : Huyệt pháp. Vốn là thuật ngữ khoa xem tướng, chỉ 3 phần trên mặt người : phần trán là thượng đình, phần mũi là trung đình, phần miệng là hạ đình; hoặc chi 3 phần trên thân thể người : phần đầu là thượng đình; phần từ vai đến eo lưng là trung đình; phần tử eo lưng xuống chân là hạ đình. Lý luận Phong thủy cho rằng tướng núi giống như tướng người, nên lập huyệt Tam đình, gọi là Thiên đình, Trung đinh, Địa đình. Huyệt thiên đình nằm ở nơi cao nhất, đòi hỏi Lai Long lớn và xa, thế xuống như mây vờn, hai bên phía trước có hộ vệ nghiêm mật, Minh đường ở phía dưới . Huyệt trung đình thì mạch núi uốn lượn, trong vuông ngoài tròn, rất chú trọng hình thế bốn phía xung quanh, đòi hỏi Minh đường phải rộng rãi sáng sủa. Huyệt hạ đình nằm ở vùng đất bằng, nhưng không được tách khỏi mạch khí, đòi hỏi Thủy thành phải như hình cầu vồng ôm ấp kín đáo. Thập nhị trượng pháp : Huyệt pháp. Còn gọi là Thập nhị đảo trượng, là phép Thừa Long định huyệt do Dương Quân Tùng đởi Đường sáng lập. Phương pháp này căn cứ thế đến khác nhau của mạch núi mà qui định cách định huyệt khác nhau, như thuận trượng, nghịch trượng thúc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, ly trượng, một trượng, đối trượng, phạm trượng, tiệt trượng, đốn trượng; tổng cộng 12 trượng. Ngoài 12 trượng, còn có hình thế núi đặc thù, tạo thành 17 phương pháp kết huyệt, như thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm thúc, nghịch trượng kiêm thuận, đại thể lấy thuận trượng và nghịch trượng làm phương pháp cơ bản, kiêm với phương pháp khác, rất cụ thể tường tận. Thập nhị trượng pháp có ánh hưởng rất lớn trong Phong thủy âm trạch, một số nguyên tắc trở thành tiêu chuẩn mà các Phong thủy sư đều tuân theo. Thuận trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thuận theo mạch chính của Lai Long. Yêu cầu lực lượng của Lai Long phải hậu trọng, thế đến hơi hòa hoãn, hơi uốn lượn; định huyệt phải chính giữa mạch khí, dung 4 phép Cái huyệt, Chương huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt. Huyệt loại này cực quí, chủ con cháu làm vương hầu, trạng nguyên. Nghịch trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ngược với mạch chính của Lai Long. Yêu cầu Tổ sơn phải cao vút, nhấp nhô chạy thẳng đến trước mặt. Định huyệt thì lấy Tổ sơn làm Triều sơn, dùng 4 phép Niêm huyệt, Tịnh huyệt, Câu huyệt, Tà huyệt. Mạch núi phía trước không được chĩa thẳng vào huyệt, nên huyệt phải cách mạch khí vài thước, ngược đón mạch khí. Huyệt loại này phát phúc lâu dài. Thúc trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long dài mà kết thế ngắn, khí tụ ở trên đỉnh, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở chỗ sống núi co lại. Yêu cầu chỗ tận cùng của đỉnh núi phải hơi nhô, sinh khí tụ tại đó giống như huyệt Bách hội trên đỉnh đầu con người; dùng 2 phép Cái huyệt và Thôn huyệt. Do huyệt ở chỗ khá cao, rất sợ gió thổi, nên bốn phía phải cao tương ứng, Minh đường viễn tụ. Thúc trượng nên cao, không nên thấp; nếu thấp sẽ bị núi bốn phía lấn át.
44
Xuyết trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có thế đến hùng vĩ mà lục lượng nhỏ nhẹ, đến thẳng mà xuống gấp, cần thoát mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Mạch và huyệt lúc liền lúc rời, như thể dùng chỉ khâu áo, nên có tên như vậy (xuyết nghĩa là khâu). Yêu cầu huyệt phải ở cách mạch khí hoặc 1 - 2 thước, hoặc 3 -4 thước, không cao không thấp; thường dùng 2 phép Niêm huyệt và Trụy huyệt. Nếu huyệt cách mạch quá gần, khó tránh bị xung sát, nếu cách quá xa, sinh khí không được tiếp nối. Khai trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long xộc thẳng đến như kẻ xung sát đáng sợ, cần né sang hai bên mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thành 2 huyệt; dùng 3 phép Ỷ huyệt, Ai huyệt và Tịnh huyệt, để huyệt mộ tránh bị xung sát mà tiếp nhận sinh khí từ bên cạnh. Yêu cầu phải quan sát xem Minh đường, sa thủy, Triều sơn và án sơn qui tụ tại phương nào. Huyệt cách mạch 2 - 3 thước, gọi là mượn mạch lập huyệt, chủ phát đạt mau chóng. Xuyên trượng : Huyệt pháp. Chỉ mạch núi đến ngang hoặc đến xéo, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) tại chính diện, giống như dùng chỉ xỏ lỗ kim, tra cán búa, khí nhập vào eo lưng. Yêu cầu Lai Long từ xa đến thẳng, không tách thành các nhánh, tứ ứng đều tốt; dùng 3 phép Sáp huyệt, Chương huyệt, Cái huyệt. Mạch khí chỉ có thể đi vào từ eo lưng, không được xung não, sau khi mai táng chủ phát phúc lâu dài. Ly trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có khí thế hùng vĩ, đang chạy đến thì bỗng nhiên sững lại, tụt xuống biến mất tại đồng bằng, cần tách khỏi mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Long mạch đang nhấp nhô chạy về phía trước, đến chỗ kết huyệt bỗng dàn trải thoáng rộng, tựa như con rắn con ve lột xác, sinh khí không tụ, cách mạch 2 - 3 thước ở phía trước tất có chỗ lõm đột ngột, sinh khí tụ lại ở đó; định huyệt tại đây rất tốt. Dùng 3 phép Cái huyệt, Tịnh huyệt và Trụy huyệt. Huyệt không nén sâu. Một trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long uốn lượn xuống gấp mà chỗ tận cùng lõm hãm sinh khí đến đó thì hết; định huyệt (kết huyệt thụ huyệt) chỗ lõm, chìm vào mạch khí. Yêu cầu Lai Long phải có hình thế cao lớn, đến trước huyệt thì uốn lượn sang hai bên rồi vòng lại, kết thành lõm núi, xung quanh cao, huyệt mộ tàng ẩn ở sâu bên trong. Dùng 5 phép Chương huyệt, Sáp huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt, Giá huyệt. Nếu chỗ lõm quá nhỏ, có thể dùng sức người đục đẽo để tạo huyệt. Đối trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long cao thẳng to lớn, ở chỗ nhập thủ bỗng nhiên thấp xuống, trải ra bằng phẳng, không có chỗ lõm, chỗ kẹp, nên định huyệt ( kết huyệt, thụ huyệt) ở giữa mảnh đất đó, hoặc ở chỗ tiếp giáp giữa phần cao với phần thấp. Do mạch Đối trượng cao mà gấp, xung sát liên tục, nên nửa cát nửa hung, khó biết thành bại.
45
Tiệt trùng : Huyệt pháp. Chỉ mạch khí của Lai Long không mạnh mẽ, chưa đến chỗ tận cùng thì dừng thâu mạch khí mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Yêu cầu chân núi của Lai Long phải khá dài, lập huyệt ở chỗ mạch khí chưa tận cùng; huyệt cao ắt bị gió thổi, huyệt thấp ắt bị băng đè, nên cần ngăn chặn mạch khí, làm cho sinh khí không bị tiết thoát, đó là điểm cốt yếu của Tiệt trượng. Phạm trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long ngắn nhỏ, hòa hoãn, nên định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở trên mạch; nếu lập huyệt ở chỗ tận cùng thì sinh khí quá yếu, kém tác dụng, cho nên phải phạm mạch tọa huyệt để lấy vượng khí; thường dùng 4 phép Chương huyệt, Thôn huyệt, Cái huyệt, Sáp huyệt; đồng thời yêu cầu Minh đường phải rộng, núi sông phải ở phía xa. Có thuyết nói mạch Phạm trượng nguy hiểm, lập huyệt kiều này rất hung. Đốn (đột) trượng: Huyệt pháp. Chi Lai Long cao lớn hùng vĩ, Tứ ứng đều thấp, nên đắp đất thành gò ở chỗ tận cùng mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Do sinh khí của Lai Long quá vượng, gặp thủy thì dừng mà cuồn cuộn bốc lên, bởi vậy phải đắp đất tạo huyệt để tiếp nhận sinh khí mà không bị xung. Nếu không đắp đất thành gò, huyệt mộ sẽ bị mạch khí bắn thẳng tới, mai táng ở đó con cháu sẽ tán gia bại sản. Oa kiềm nhũ đột: Địa hình. Thuật Phong thủy cho rằng lập huyệt mộ ở chỗ lõm tròn, là nơi sinh khí hội tụ. Nơi lõm tròn có hình dạng khác nhau, nên có tên gọi khác nhau, trên tròn dưới nhỏ là Oa kiềm, dưới tròn trên lớn là Nhũ, giữa tròn trên dưới nhỏ là Đột. Bào đột : Địa hình. Ở trong chỗ lõm tròn của huyệt mộ có điểm nhỏ nhô lên, trông như cái bong bóng nước (bào : bong bóng, đột : nhô lên); Nếu trong Oa kiềm có Bào đột, gọi là La văn, đại quí. Phù thổ: Chỉ thổ nhưỡng của mặt đất ở chỗ có huyệt mộ. Bên dưới nó là Thực thổ. Thực thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở sâu dưới mặt đất, chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Phù thổ, bên dưới nó là Huyệt thổ. Huyệt thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở rất sâu dưới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dưới cùng, như hạt châu dưới vực, như ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không được đào xuyên sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chưa đào tới đo thì chưa đắc khí, nếu đào xuyên qua ắt làm tổn thương Long cốt. Phân biệt Huyệt thổ thì căn cứ vào màu sắc va đường vân của đất. Mà sắc của huyệt thố thì trong và nhuận ẩm, đường vân của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc như đồ hình Thái cực, hoặc như vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan quách; hoặc bao quanh tảng đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi đào tơi huyệt thổ thì dùng ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính là chân thổ (đất thực sự). Sâu dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đưa quan tài xuống. Tam hại: Tức gió, nước, kiến. Phong thủy âm trạch cho rằng huyệt mộ bị gió thổi, nước xối, kiến đục là 3 cái hại, cho nên phải cẩn thận lựa chọn đất lành, tránh bị tam hại. Nếu chất đất tại huyệt mộ khô vụn, tơi, huyệt mộ không sâu, ắt khó tránh bị kiến đục. Nếu
46
huyệt mộ ở chỗ đất ám ấm thấp, đào xuống quá sâu, thì khó tránh bị nước xói lở. Nếâu xung quanh huyệt mộ sông núi bao bọc không kín, ngay phía trước lõm khuyết, thì khó tránh bị gió thổi. Huyệt bị tam hại thì sinh khí không tụ, xương cốt khó được bảo tồøn nguyên vẹn, nguời chết không yên, người sống gặp họa, đại hung. Tam cát lục hung: Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng. Tam cát : một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỷ tránh; hai là âm dương xung hòa, ngũ thổ tứ bị , ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực có đủ ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho có thể đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức người tu bổ được, là cát. Lục hung : một, âm dương sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc; ba, sức nhỏ đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dưới; sáu, ứng biến quái dị. Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng vọng hưởng phúc, đối xử không đúng với người trên kẻ dưới, phá hoại đất lành, nhiều lần gặp chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà táng hung thì chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu. Phong thi : Phép mai táng. phong tục thời cổ, trước khi chôn người chết bèn dùng thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín "thất khiếu", đề phòng thi thể khỏi bị thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm như vậy, thi thể sẽ không thể hóa, sinh khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem vứt xác xuống sông), đại hung. Đạo táng : Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định : trước khi đào mộ chôn người chết, phải đem rượu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành 3 đoạn, rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì hung. Ái khoảng: Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xưa, sau khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sưởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái khoảng sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản đối việc dùng gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều được chế tạo qua lò lửa, bên trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong đất, tiêu diệt ngũ hành, hung. Hóa huyệt: Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng. Quan thượng gia quan : Phép mai táng. Phong tục xưa đem người chết sau chôn chung vào huyệt mộ của người đã chết trước, gọi là "quan thượng gia quan", ngụ ý để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng huyệt mộ được mai táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vượng, nếu đào lần thứ hai để mai táng thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ làm cho cả hai cùng hỏng. Một mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì huyệt thứ hai không có sinh khí; cho nên trong gia
47
tộc đem chôn người chết sau chung huyệt với người chết trước là hung. Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy. Trạch triệu: Đất huyệt mộ. Hiếu kinh. Táng thân viết : "Bốc kỳ trạch triệu nhi an thố chi". Đường Huyền Tông chú giải : "Trạch, nghĩa là đất huyệt mộ, triệu, đất mồ mả vậy". Vị nhân trần tình biểu của Trần Tử Ngang đời Đường có câu "Kim bốc cư trạch triệu, tương nhập cựu doanh" (Nay bói đất đào huyệt, đem an táng ở ngôi mộ cũ. Về sau các chữ "Bốc trạch", "Bốc triệu" đều chỉ việc chọn đất an táng, riêng Bốc trạch còn có nghĩa chọn nơi làm nhà ở. Xem mục Bốc trạch. Ngưu miên địa: Đất huyệt mộ. Rút từ Tấn thư. Chu Phỏng truyện : "Hồi Đào Khản còn nhỏ, Đinh Gian chết, sắp mai táng, nhà có con trâu bỗng dưng bỏ đi đâu không biết. Gặp một ông già nói: Ở cái gò phía trước lão thấy có con trâu nằm ngủ, nếu mai táng ở đó, sẽ được làm quan to. Ông già lại chỉ tay về phía một quả núi mà nói, chôn ở đấy cũng tốt, đời này sẽ có người làm quan hưởng lương hai ngàn thạch, nói đoạn biến đi luôn. Khản tìm thấy trâu, nhân đó đem mai táng ở chỗ ấy". Về sau người ta bèn dùng hai chủ ngưu miên" (trâu ngủ) để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miên địa, Bình lập Thái sơn đới vĩ tư". Giai thành: Đất huyệt mộ. Rút từ Bác vật chí, quyển 7 "Dị văn" : "Đời Hán, Đằng Công (Hạ Hầu Anh) chết, định mai táng ở bên ngoài thành Đông Đô , các quan đi đưa tang, chiếc xe tứ mã chở quan tài. Mấy con ngựa không chịu đi, cứ hí thảm thiết và dùng vó cào xuống đất, hằn thành dòng chữ "Giai thành uất uất, tam thiên niên, kiên bạch nhật, hu giai Đằng Công cư thử thất" bèn mai táng tại chỗ đó. Về sau người ta bèn dùng hai chữ "Giai thành" để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miện địa, Binh lập Thái sơn đới vĩ tư". Huyền thất: Nhà mồ. Tư đồ Lã Công lỗi của Trương Hoành đời Hán (xem Nghệ văn loại tụ, quyến 47): "Khứ thử ninh ngụ, qui ư u đương. Huyền thất minh minh, tu dạ di trường". Tấn thư. Tá Quí Tần truyện: "Ái định trạch triệu, khắc thành huyền thất". Thuật Phong thủy bèn dung hai chữ "huyền thất" để chỉ huyệt mộ. Huyền trạch Huyệt mộ. Trịnh quân mộ chí minh của Hàn Dũ đời Đường (xem Xương Lê tập, quyển 32), có câu : "Động nhiên hỗn phác tuyệt hà thương, Giáp Tí nhất chung phản huyền trạch". Đôn Hoàng, quyển Tử Bá 3358 "Mộ huyệt phù": "Thử thư huyền thất tứ giác, đại cát lợi". Huyền khư: Huyệt mộ. Quán thị địa lý chỉ mông. Thịnh suy cải độ đệ tứ thập" : "Đương sơ lũ khảm, cự khoa kim nhật chi huyền khư, huống thử giai thành, ninh bảo thiên niên chi hoang tần !" với lời chú "Huyền khư, nghĩa là huyệt vậy".
48
Sinh khoảng : Nhà mồ xây dựng cho mình lúc còn sống. Phong tục này có từ đời Hậu Hán. Hậu Hán thư. Triệu Kỳ truyện : Lúc còn sống, Triệu Kỳ xây dựng thọ tàng đúc 4 bức tượng Tử Sản, Án Anh, Lý Trát, Thúc Hướng đặt ở vị trí tân khách, lại tự vẽ chân dung mình treo ở vị trí chủ nhân, ngụ ý tán tụng". Lý Hiền chú giải : thọ táng nghĩa là nhà mồ, dùng chữ thọ, ngụ ý mong được lâu bền như chữ thọ quan, thọ khí vậy". Về sau, vào đời Đường, quan Tư không xây dựng sinh khoảng, mỗi khi đến ngày lành vào mùa xuân, mùa thu, lại mời quan khách đến đó ngâm vịnh. Ngày nay vẫn còn có người theo cách ấy, thực là một hủ tục. THỦY ĐẠO VÀ THỦY HÌNH Thủy long: Chi thủy đạo (đường nước chảy) ở vùng đồng bằng. Thuật Phong thủy vốn lấy mạch núi làm Long, sinh khí tùy theo nó mà vận hành trong lòng đất, là Nội khí, còn thủy lưu thì gọi là Ngoại khí. Ở vùng đồng bằng sông nước, không có núi, chỉ có thủy, nên lấy thủy lưu làm Long, đồng thòi cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất mà vô hình, khi dồi dào sung mãn thì tràn lên mặt đất, tức là thủy. Quan sát thủy tức là quan sát khí, giống như tầm (tìm) Long ở vùng núi. Ca quyết nói: "Hành đáo bình dương mạc vấn tông, Chỉ khán thủy nhiêu thị chân Long" (Thủy Long kinh tự ). Thuyết thủy Long lấy dòng sông lưu thông làm Hành Long, tức là Can Long (thân Long), thân Long uốn lượn. giới định Ngoại khí. Mương ngòi, kênh rạch là các Chi Long (phân nhánh), Chi Long giao hội, Nội khí thai nghén. Dựa vào thủy Long mà định huyệt dựng nhà, lấy Chi không lấy Can, nhưng cần có Can Chi tương xứng. Can Long không có Chi, khí của nó dàn trải, không thiết thân với nhà ở, huyệt mộ. Chi Long không có Can, tuy phát phúc nhưng chẳng lâu bền. Điều quan trọng là phải phối hợp Can Chi một cách sinh động. Vùng sông hồ, nước mênh mông trông như đại Can, dựng nhà có thể hội tụ sinh khí, làm mộ chỉ cần Chi thủy có tình là được. Trong thuật Phong thủy, thuyết thủy Long căn cứ vào tình hình vùng sông nước mà được đề ra, có ảnh hưởng rất lớn đối với Phong thủy dương trạch. Thủy thành : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu uốn quanh như bức tường thành. Sinh khí vận hành trong lòng đất, gặp thủy thì dừng; thủy lưu uốn lượn như cánh cung, giới hạn chân núi, ngăn dừng sinh khí, nên gọi là Thủy thành. Huyệt mộ, nhà ở đều cần nằm ở bên trong Thủy thành; nếu ở bên ngoài Thủy thành sẽ là phản cung, hung. Ngoại thuỷ : Thủy đạo. Đối ứng với Nội thủy, tức là dòng nước chảy ở bên ngoài Minh đường. Thuyết thủy Long lấy Can lưu ở bên ngoài Chi thủy làm Ngoại thủy. Nội thủy: Thủy đạo. Chỉ dòng nước chảy bên trong Minh đường. Nói chung, nó chảy theo hai bên mạch núi đến Minh đường, hội hợp ở trước huyệt, yêu cầu phải Bình, Hoành, Nhiêu; có thể dùng sức người cải tạo cho phù hợp với yêu cầu. Thuyết thủy Long lấy Chi lưu ở bên trong Can lưu sông nước làm Nội thủy. Nhuế vị : Thủy đạo. Nhuế, nghĩa là chỗ dòng sông uốn khúc. Còn gọi Thủy bắc là Nhuế.
49
Phần lớn vị trí của huyệt mộ, nhà ở đều tọa bắc hướng nam; vị trí sơn nam thủy bắc gọi là Nhuế. Nhưng yêu cầu thủy lưu phải ôm vòng lấy phía trong như cánh cung, thì chỗ đất ấy mới lành. Nghênh tài: Thủy đạo. Chỉ phía trước huyệt mộ có thủy lưu bốn phía chảy tới hội tụ. Thủy tượng trưng tiền tài, nên gọi là nghênh tài. Mai táng thì cát. Kim long: Thủy đạo. Thuật Phong thủy lấy Thìn sơn, Tuất sơn, Mùi sơn, Sửu sơn làm đất Tứ mộ; thuỷ chảy đi phương vị Tứ mộ là cát. Nếu dòng nước ở phương vị Tứ mộ thông thoáng, thì nói là Kim Long động; nếu dòng chảy ở đó bế tắc, thì gọi là Kim Long không động. Kim Long động, thì tại đất huyệt mộ âm dương điều hòa, thư hùng giao hội, cát lành. Kim Long không động, thì thiếu sinh khí, hung. Thủy khẩu : Thủy đạo. Chỉ chỗ nước chảy vào chảy ra ở phía trước nhà ở, thôn xóm hoặc huyệt mộ. Theo lý luận Phong thủy, sinh khí vận hành tùy theo mạch núi, gặp thủy thì dưng. Nghĩa là Lai Long từ xa đến, ắt cần có thủy lưu ở phía trước để ngăn Long tụ khí. Bất kể thủy lưu từ phương nào chảy đến và chảy đi phương nào, chỗ nó đến là nhập khẩu (chảy vào), cũng gọi là Thiên môn; chỗ chảy ra là xuất khẩu, gọi là Địa hộ. Hai chỗ đó gọi gộp là Thủy khẩu. Yêu cầu Thiên môn phải rộng rãi, không nên vòng vèo ách tắc; Địa hộ thì phải phong tỏa kín đáo, tối kỵ chảy thẳng đi một cách vô tình. Do tác dụng của địa hình, nước bao giờ cũng chảy từ chỗ cao tới, nói chung có thể tự nó tìm cách mở rộng lối đi, nên Địa hộ (chỗ nước chảy ra) càng trở nên quan trọng. Thuật Phong thủy trong đa số trường hợp nhắc đến thủy khẩu thì chủ yếu là nói về Địa hộ. Táng kinh dực viết: "Thủy khẩu là một phía mà các loại thủy cùng chảy ra vậy". Vị trí của thuỷ khẩu nên nằm ở giữa hai bên núi cao hoặc ở chỗ mạch núi uốn lượn; yêu cầu dòng nước uốn khúc mà chảy đi, không thấy nó chảy đi là cát Núi ở hai bên bờ thủy khẩu co 4 tên gọi là Sư (sư tử), Tượng (voi). Qui (rùa), Xà (rắn), lớp lớp che chắn trong thì tụ khí, ngoài thì chắn gió. Nếu Hanh Long phương khác thích hợp với thủy khẩu, sẽ tạo thành các cục diện Hoa biểu, Cản môn, Thiên mã đại quí. Xây dựng đô thành, lăng tẩm đế vương, thì núi ở hai bên thủy khẩu phải sừng sững, cao đẹp, hùng cứ một phương. Cự li của thủy khẩu có xa và gần. Nhìn chung, đất huyệt mộ cách thủy khẩu tương đối gần, còn thôn xóm đô thị thì cách thủy khẩu tương đối xa, từ 1 đến 2 ~ 3 dặm, 7 ~ 8 dặm, thậm chí vài chục dặm, 2 ~ 3 trăm dặm. Cách thủy khẩu xa tất là đại địa. Thủy khẩu đại chia ra nội, ngoại, đại, tiểu. Ngoại thủy khẩu tức Đại thủy khẩu, là nơi tổng vào ra của toàn bộ thủy lưu trong vùng, tức Tổng thủy khẩu. Bên trong Tổng thủy khẩu bất kể Lai Long nhiều hay ít, kết địa nếu là Can, thì sát thân mình cần có Tiểu thủy khẩu, tức Nội thủy khẩu, yêu cầu Sa phải thành lớp lớp thu thủy. Ca quyết viết "Quan môn nhược hữu thập trùng tỏa. Tất hữu vương hầu cứ thử gian"; (Táng kinh dực), là đất đại quí. Trong Phong thủy dương trạch, tại thủy khẩu người ta có thể tiến hành kiến tạo các công trình che chắn phong tỏa thủy khẩu, như bắc cầu, đắp đê, hoặc xây dựng trên bờ đình đài, lầu tháp, hoặc đắp gò nổi ngay trong nước. Ở vùng đồng bằng không có núi che chắn thủy khẩu, thi đòi hỏi thủy lưu phải uốn khúc, đồng thời phải kiến tạo công trình phong tỏa. Phương vị của thủy khẩu cũng có quy tắc phải theo; Ở vùng rừng núi, nói chung thủy lưu tùy theo hướng của mạch núi mà định, ở vùng đồng
50
bằng, thì căn cứ địa thế cao thấp mà quyết. Đặc điểm địa hình của Trung Quốc là phía tây cao, phía đông thấp, nên các dòng sông chủ yếu chảy từ phía tây sang phía đông mà ra biển, cho nên thủy khẩu phần lớn cũng phải nằm ở phía đông, phía nam hoặc đông nam, mà phổ biến là ở phía đông nam. Thuật Phong thủy tổng kết rằng thủy khẩu ở vị trí Tốn sơn là cát lành. Thủy khẩu có nhiều tên gọi, ví dụ Phong môn, ngụ ý có gió thổi vào đây; gọi là Lậu đạo, ngụ ý sinh khí thất thoát từ đây; nên núi ở thủy khẩu có tên gọi Phong thành, Cản môn ngụ ý chắn gió, cản gió. Thuật Phong thủy cực kỳ coi trọng thủy khẩu". Có lý luận "Nhập sơn quan thủy khẩu" (vào núi quan sát thủy khẩu), cho rằng một vùng đất có đủ mọi điều kiện tốt mà thủy khẩu không được phong tỏa, thì rất hung. Tác dụng thực tế của thủy khẩu là giới định phạm vi bên ngoài của đất huyệt mộ, thôn trấn, đồng thời thủy khẩu cùng nằm ở chỗ địa thế thấp nhất, thường thường cũng là nút giao thông. Thuật Phong thủy rất chú trọng thủy khẩu về căn bản là do người ta coi trọng môi trường bên ngoài của huyệt mộ và thôn trấn. Kim tinh thủy : Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu uốn cong giống như cánh cung, như cầu vồng, lấy tọa bắc ôm vòng phía nam làm chính thể cát. Nếu tọa đông, ôm vòng phía tây, gọi là Hữu Kim, chủ con trai thứ phát phúc; tọa tây mà ôm vòng phía đông, gọi là Tả Kim, chủ con trai cả phát quí; nếu phản cung quay lưng lại chủ suốt đời bần cùng. Trên thực tế, nhà ở và huyệt mộ nhất thiết phải co thủy lưu ôm vòng ở một phương. Mộc tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu chảy thẳng theo hướng nam bắc. Vị trí đối diện thẳng với Mộc tinh thủy là bị bắn thẳng, hung. Mộc tinh thủy phối hợp với 4 tinh khác cung là hung, duy phối hợp với thổ tinh thủy thì chủ yếu là hung, chỉ có một chút cát lành. Thủy tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, cát (lành). Thủy tinh thủy bất kể chảy về phía nào, nếu phối hợp với Kim tinh thủy đều là cát; nếu gặp Mộc tinh thủy, Hỏa tinh thủy bắn thẳng thì hung. Hỏa tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu đến xéo đi xéo, hai thủy giao nhau thành mũi tên, trông thẳng cứng hoặc hơi uốn lên, hung. Chỉ có một thry đến xéo đi xéo, gọi là Tà phi, cũng hung. Hỏa tinh thủy phối hợp với các tinh khác, cũng hung. Thổ tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu tràn ngang, theo hướng đông tây, hung. Các biến thể như Thổ thành thủy, Trung thổ thủy thì cát. Thanh long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía đông (phía bên trái) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung. Chu tước thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía Nam (phía trước) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng và tiếng nước chảy của nó mà xác định cát hung. Bạch hổ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía tây (phía bên phải) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
51
Huyền vũ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía bắc (phía sau) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung. Triều thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu chảy đến từ phía trước nhà ở và huyệt mộ. Yêu cầu nó phải uốn lượn như con rắn trườn mình mà tới, hoặc như dải ngọc quấn quanh eo lưng, trông dịu dàng hòa hoãn. Ca quyết nói: "Thủy kiến tam loan, phú quý an nhàn" (Thủy Long kinh). Nếu chảy thẳng đến, gọi là xung xạ, đại hung. Kiềm thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ôm vòng hai bên tả hữu huyệt mộ như cái kìm, còn gọi là "Lưỡng thủy hợp". Sau khi mai táng chủ con cháu không phú thì quí. Nếu bên trong cái kìm có chỗ đất cao, định huyệt tại đó, chủ con cháu văn võ toàn tài. Đấu thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu có hình dạng tròn, lõm, khuyết như cái đấu. Ca quyết nói: "Long hổ lưỡng tương đấu, gian nghịch đa hung cữu, phụ tử bất tương thân, huynh đệ như cừu khấu" (Thủy long king). Hung. Xung xạ: Thủy đạo. Phàm thủy lưu chảy thẳng đến trước nhà ở hoặc huyệt mộ, đều gọi là Xung Xạ, đại hung. Phân phi: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy đi, gọi là Phân phi. Hung. Phi thủy: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở một bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy đi, chứ không ôm vòng lấy phía trong gọi là Phi thủy, hung. Phản thủy : Thủy đạo. Phàm thuỷ lưu ở một bên hoặc cả hai bên nhà ở và huyệt mộ như cánh cung ôm ra phía ngoài, gọi là Phản thủy, hung. Nếu thủy lưu ở phía sau nhà ở, huyệt mộ như cánh cung trở ngược, thì gọi là Phản khiếu thủy. Nếu ở một bên hoặc ở phía sau thoạt đầu uốn lượn ôm lấy phía trong, nhưng sau đó lại quay lưng chảy đi, thì cũng gọi là Phản phi hoặc Tiên bão hậu phản, đều là hung. Ất tự thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng như chữ Ất, chảy vòng qua nhà, qua mộ mà đi, đại cát. Chi huyền thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng như chữ Chi, chữ Huyền, uốn lượn mà đến, đại cát. Nếu Chi huyền thủy ở phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ, gọi là Triều thủy. Thập tự thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Thập, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thì cát; riêng một nhà thì hung. Nếu thủy lưu giao xéo nhau thành chữ Thập, bất luận âm dương trạch, đều là hung.
52
Tính tự thuỷ: Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Tỉnh, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thi cát, riêng một nhà thi hung. Nếu thủy lưu uốn lượn mà giao nhau như chữ Tỉnh, thì dựng nhà sẽ đại quí. Song long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng uốn lượn như con rồng, đồng thời ôm vòng lấy phía trong, an mộ dựng nhà đại cát. Lục kiện thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên, Tể tướng. Nghênh thần thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chỉ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên. Kim ngư yêu đới: Thủy Đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý. Tứ long hí châu: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý. Tiên chưởng phủ cầm: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây chủ con cháu thi cử đỗ đạt cao. Phi phụng thủy : Thuỷ đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu có kẻ trở thành phi tần. Hồi long thủy : Thủy đạo. Chi thúy lưu tử phương đông nam chảy đến, vòng sang phía tây, ôm lấy nhà ở hoặc huyệt mộ, sau đó chảy về hướng đông bắc, hình dạng như chữ U nằm ngang, chủ con cháu nhiều đời phú quí, làm quan to. Ca quyết nói : "Thủy thần lai xứ phục hồi đầu, hồi long khí mạch thâu, phúc lý bao tàng vô thẩm lậu, phát phúc vĩnh vô hưu" (Thủy Long kinh). Nếu thủy lưu từ phương tây nam chảy đền ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, sau đó chảy về hướng tây bắc, thì cũng tốt như vậy. Qua đằng thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, từ phía sau chảy đến ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, rồi lại chảy về phía sau mà đi; đại cát. Ca quyết nói : "Diện tiền nhất chuyển nhất trùng khố, tài bảo đa vô số, đại giang tiện xuất đại quan vinh, tiểu khê tất chủ gia hào phú" (Thủy Long kinh). Hoành thủy : Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu từ phía trước hoặc phía sau nhà ở, huyệt mộ chảy tràn ngang qua, hung. Thực tế đó là Thổ tinh thủy. Ca quyết nói : "Thất hậu hoành thủy trực lưu thông, tạm thời vị bại tức bần cùng" (Thủy long kinh).
53
Đao thương thuỷ : Thủy đạo. Chỉ nơi thủy lưu giao nhau hoặc dừng lại có hình dạng nhọn như mũi dao, mũi thương, chĩa thẳng vào nhà ở và huyệt mộ, đại hung. Ca quyết nói : "Lưu lai thủy thế tự đao thương, xạ hiệp xung tâm bất khả đương" (Thủy Long kinh) Bát tự phân lưu : 1) Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía trước huyệt mộ chảy ra như hình chữ Bát, chứ không giao nhau, hung. 2) Hình thế bên trong nhà ở. Chỉ rãnh nước bên trong nhà từ sân giữa chảy ra thành hình chữ Bát cùng gọi là Thiên thần, hung. Tam hợp thủy : Thủy đạo. Chi ở 3 chỗ Bát tự, Tiết bao, Cầu thiềm đều có thủy lưu từ hai bên chảy xuống, chia thành 3 lớp trong ngoài giao hội tại trước huyệt và ở phía trong hai sa tả hữu, gọi là Tam hợp thủy. Trên thực tế thường thường không thấy mặt nước, chỉ có rãnh nước rất nông, dòng chảy không rõ. Cách kiểm tra như sau: đốt cỏ thành tro, rắc tro bốn phía, chờ lúc mưa nhỏ, thấy tro bị dồn thành vệt, chính là nó. Cũng có Nhị hợp thủy, là Chi long kết mạch. Tác dụng của Tam hợp thủy là tụ họp sinh khi, nếu không có nó thì không phải đất lành. Đại bát tự: Thủy đạo. Ở chỗ tam thoa của Lai Long có thuỷ chảy tách ra hai bên hình dạng như chữ Bát. Vì bên dưới nó lại có Bát tự thủy phân lưu, nên gọi là Đại bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai vai. Tiểu bát tự : Thủy đao. Bên dưới tam thoa của Lai Long, ở chỗ Cầu thiềm, có thủy chảy tách ra hai bên, hình dạng như chữ Bát. Vì bên trên nó đã cỏ Bát tự thủy là Đại bát tự, nên gọi nó là Tiểu bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai mắt. Hà tu thủy : Thủy đạo. Ở hai Sa tả hữu phía trước huyệt mộ có thủy gần như giao nhau tại phần đầu mút, đó là Hà tu thủy. Ví với cơ thể người, thì Hà tu thủy là ria mép. Ngọc tính: Chỉ rãnh, hào chứa nước ở trước huyệt mộ. Nói chung người ta dùng sức người lát các phiến đá che bên trên rãnh nước cho ngang bằng mặt đất; sau đó ngầm dẫn nước từ hai bên Lai sơn cho chảy vào Ngọc tỉnh, rồi từ đây cho chảy ra phương vị lục thế. Thực tế là dùng sức người cải tạo Nội thủy. Ngọc tỉnh có tác dụng khiến Nội thủy giao hội ở trước huyệt mà không phá hoại địa thế bằng phẳng của Minh đường Ngọc tỉnh phải là rãnh hoặc hào nước do thiên nhiên tạo nên ở trước huyệt, không thể do con người đào khoét, nêu không sẽ hứng chịu nhiều tai họa. Có thuyết nói Ngọc tỉnh là chỗ chứa nước dơ trước huyệt, không nên che đậy bên trên. Thủy thanh: Chỉ âm thanh do nước chảy mạnh phát ra. Phàm thủy lưu ở bốn phía nhà ở, huyệt mộ bất kể từ đâu chảy tới rồi chảy đi đâu, đều phải êm đềm hòa hoãn mới tốt; nếu chảy xiết réo sôi là hung; nghe rì rào thì được nghe ai oán hoặc sôi reo, ùng ục như tiếng sấm thì đại hung. Tiếng nước chảy ở trước nhà nghe như tiếng khóc la thoái tài (tiền tài sa sút). Thưởng thủy pháp: Phương pháp phân biệt chất lượng tốt xấu của thủy (nước) để xác
54
định cát hung. Thuật Phong thủy cho rằng vị của nước tốt hay xấu có quan hệ với cát hung của mạch đất, nên dung Thưởng thủy pháp (phép nếm vị của nước) để dự đoán tình hình mạch đất. Ở vùng đồng bằng và gò đồi, thì lấy nước giếng, nước suối hoặc nước mương ngòi; Ở vùng núi thì lấy nước khe suối, đưa lên miệng nếm thử, nếu thấy vị ngọt, thơm, dịu là cát (lành), nếu thấy vị đắng, chua, cay, nồng là hung.
PHƯƠNG VỊ VÀ TỌA HUỚNG Nhị thập tứ sơn: Phương vị. Còn gọi là Nhị thập tứ lộ, Nhị thập tứ hướng, là một trong những khái niệm quan trọng nhất của thuật Phong thủy. Xuất hiện sớm nhất trong Ty nam ( kim chỉ nam ) thời cổ, hiện còn giữ được dụng cụ loại đó chế tạo vào đời Hán. Tức là đem chia vòng tròn 360 độ thành 24 phần bằng nhau, mỗi phần là 15 độ, gọi là 1 sơn và dùng 4 duy 8 can 12 chi để đặt tên. Trong thuật Phong thủy, phàm nói đến phương vị, hầu như đều đề cập 24 sơn; được ứng dụng rất rộng rãi. Trên hình vê, đường gạch đứt ( - ) chỉ ranh giới âm dương. Có thuyết nói từ Tuất sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Ất sơn là dương, từ Thìn sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Một thuyết khác coi từ Tí sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Bỉnh sơn là dương, từ Ngọ sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Nhâm sơn là âm. Khi nói đến Tọa hướng thủy pháp, lại thường lấy 12 sơn Nhâm, Tí, Quý. Dần, Giáp, Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân, Tuất, Càn làm dương; còn 12 sơn Hợi, Sửu, Cấn, Mão, Tốn, Ty, Bính, Đinh, Mùi, Canh Dậu, Tân lam âm. Trong phạm vi dương là dương sơn dương thủy, trong phạm vi âm là âm sơn âm thủy, phái căn cứ qui tắc mà phối hợp, dương chảy theo dương, âm chay theo âm, âm dương rối loạn thì hung. Mỗi một trong 24 sơn có tên gọi cát hung khác nhau, âm dương trạch khác nhau. Dương trạch lấy Càn sơn làm Thiên môn, Thú dương; Hợi sơn là Chu tước, Long đầu (đầu của long); Nhâm sơn là Đại họa; Tí sơn là Tử táng, Long hưu thủ (tay phải của Long), đối ứng quẻ Khảm; Quý sơn là Phạt ngục; Sửu sơn là Quan ngục, Huyền ngục. Cấn sơn là Quỉ môn Trạch ung; Dần sơn là Thiên hình Long bối (lưng của Long ); Giáp sơn là Trạch hình; Mão sơn là Hình ngục, Long hữu hiệp (sườn bên phải của Long), đối ứng quẻ Chấn, Ất sơn là Đằng xa, Tụng ngục, Thìn sơn là Bạch hổ, chân bên phải của Long; Tốn sơn là Địa hộ, Phong môn. Phúc thủ, Tỵ sơn là Thiên phúc, Trạch cực, đuôi Long; Bính son là Minh đường, Trạch phúc; Ngọ sơn là Cát xương, chân trái của Long, đối ứng quẻ Ly; Đinh sơn là Thiên thương; Mùi sơn là Thân phủ; Khôn sơn là Nhân môn, ruột của Long, Phúc nang (Túi phúc); Thân sơn là Ngọc đường; Canh sơn là Trạch đức. Dậu sơn là Đại (đức, sườn bên phải của Long, đối ứng quẻ Đoài; Tân sơn là Kim quý, Tuất sơn là Đia phủ, tay trái của Thanh Long. Tên gọi cát hung của 24 sơn âm trạch thì ngược hướng với dương trạch, ví dụ Hợi sơn của dương trạch là Chu tước, đầu của Long, thì đối nghịch là Tỵ sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, vậy Hợi sơn của Âm trạch biến thành Tỵ sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, âm trạch Ty sơn biến thành Chu tước, đầu của Long. Những cái khác theo đó mà suy, nhưng Tứ duy thì không biến động, nghĩa là Càn sơn, Cấn sơn Tốn sơn, Khôn sơn thì âm dương trạch giống nhau. 24 sơn lại có tọa mệnh, như Hợi sơn dương trạch là phụ mệnh (mệnh cha), Nhâm sơn là Mẫu mệnh (mệnh mẹ ), Tí sơn là mệnh con trai cả, Quý Sơn là mệnh con trai thứ. Âm trạch thì lấy Tỵ sơn làm mệnh cha, Bính sơn làm mệnh mẹ, Ngọ sơn làm mệnh con trai cả, Đinh sơn làm mệnh con trai
55
thứ. Phàm xung phạm mệnh tọa, thì tai họa sẽ ứng vào người tương ứng, đại hung. 24 sơn có quan hệ với ngũ hành, bát quái, 12 cung, cửu tinh, 24 thiên tinh, 24 tiết khí. Xem mục La bàn. Nhị thập tứ lỗ : Tức Nhị thập tứ sơn. Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tứ chính : Phương vị. Chỉ 4 hướng chính đông, chính tây, chính nam, chính bắc. Trong 24 sơn đó là Tí sơn (chính bắc), Ngọ sơn (chính nam), Mão sơn (chính đông), Dậu sơn (chính tây), phân biệt đối ứng 4 quẻ Khảm, Ly, Chấn, Đoài. Tầm Long định huyệt nhìn chung không coi việc toạ lạc hoặc mặt hướng về tứ chính là cát. Tứ ngung : Phương vị. Tức 4 góc. Chỉ 4 hướng đông nam, tây bắc, tây nam, đông bắc. Góc đông nam còn gọi là "Giao", góc tây bắc còn gọi là "Ốc lậu", góc tây nam còn gọi là "Áo", góc đông bắc còn gọi là "Hoạn". Trong 24 sơn, Tứ ngung là Càn sơn (tây bắc), Cân sơn (đông. bắc), Tốn sơn (đông nam), Khôn sơn (tây nam). Hạ tang lấy tọa lạc hoặc mặt hướng về Tứ ngưng là quí. Tứ ngưng còn gọi là Tứ duy. Tứ duy: Phong vị. Tục Tứ ngung. Xem mục Tứ ngưng. Bát can : Phương vị. Chỉ 8 thiên can trong 24 sơn là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Qúy. Phân biệt lần lượt nằm ở các vị trí: chính đông thiên bắc 15 độ (Giáp), chính tây thiên nam 15 độ (Canh), chính nam thiên đông 15 độ (Bính), chính bắc thiên tây 15 độ (Nhâm), chính đông thiên nam 15 độ (Ất), chính tây thiên bắc 15 độ (Tân), chính nam thiên tây 15 độ (Đinh), chính bắc thiên đông 15 độ (Quý). Vì thiên can không có Sát mà địa chi không có Sinh nên hạ táng lấy tọa lạc hoặc chính hướng tám Can nói trên là quí. Ca quyết có câu : "Cổ nhân vi hà chỉ hữu bát, trong dục phùng sinh bất phùng sát" (Quản thị địa lý chỉ mông). Thiên môn : 1) Phương vị. Chỉ hướng tây bắc. Chính là Càn sơn. Thuyết này xuất hiện rất sớm. Thuật Phong thủy cho rằng ở phương vị Thiên môn không nên xây lầu cao, phạm vào chỗ đó sẽ hại cho gia trưởng. Chọn ngày Đinh, ngày Nhâm trong tháng Năm mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thi cát. 2) Địa hình. Chỗ nước chảy đến hoặc chảy vào, cần phải rộng mở. Xem mục Thủy khẩu. Địa hộ : 1) Phương vị. Chỉ hướng đông nam. Chính là Tốn sơn. Còn gọi là Phong môn. Thuật phong thuỷ cho rằng ở phương vị Địa hộ không nên xây lầu cao, (chỉ nên mở cửa hoặc xây phòng thấp, để sinh khí khỏi bị bế tắc. Chọn ngày Bính, ngày Tân trong tháng Mười Một mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. 2) Địa hình. Chỗ nước chảy đi hoặc chảy ra, cần uốn lượn ngoằn ngoèo. Xem mục Thủy khẩu.
56
Nhân môn : Phương vị. Chỉ hướng tây nam. Chính là Khôn sơn. Còn gọi là Long tràng. Phong thủy dương trạch cho rằng Nhân môn là nơi nên làm chuồng trâu chuồngngựa. Chọn ngày ất, ngày Canh trong tháng Hai mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết nói Nhân môn là "Lý quỉ môn" hoặc "Nữ quỉ môn", không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này. Quí môn : Phương vị. Chỉ hướng đông bắc. Chính là Cấn sơn. Còn gọi là Quỷ Lộ. Tà khí, Sát khí phần nhiều từ phương này đến, cho nên tuyệt đối không mở cửa hoặc làm phòng ở. Nên xây tường cao che chắn sát khí. Chọn ngày Giáp, ngày Kỷ trong tháng Tám mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết gọi đây là "Biểu quỉ môn" , không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này. Quí lộ : Phương vị. Tức Quỉ môn. Xem mục Quỉ môn. Lục tương : Phương vị. Tương có nghĩa phu trợ. Chỉ trạng thái sinh vượng của ngũ hành. Thuật Phong thủy lấy Dưỡng, Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục tương, ở các vị trí lần lượt khác nhau như : Bính hỏa lấy Ngọ làm Đế vượng. Đinh kim lấy Mùi làm Quan đới. Khôn thổ lấy Thân làm Tràng sinh, Canh thổ lấy Dậu làm Mộc dục, Tân thủy lấy Tuất làm Quan đới, Canh mộc lấy Dần làm Lâm quan, Ất hỏa lấy Thai làm Quan đới. Căn cứ phương vị Lục tương, có thể dự đoán sự cát hung hưu vượng của sơn, thủy. Nói chung, phàm Long hoặc Thủy đến từ phương vị Lục tương thì đều là cát lợi. Phương vị sở tại của Lục tương thì biến đổi theo ngũ hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp). Lục thế : Phương vị. Thế có nghĩa phế bỏ, suy bại. Thuật Phong thủy lấy Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục thế, ở các vị trí lần lượt khác nhau và biến đổi theo Ngũ hành, như Giáp thủy lấy Dần làm Bệnh, Tốn mộc lấy Thìn làm Mộ, Càn kim lấy Hợi làm Bệnh, Nhâm hỏa lấy Tý làm Thai, Quý thổ lấy Sửu làm Suy. Từ đó có thể suy ra cát hung của sơn thủy. Nói chung, phàm sơn, thủy tử phương vị lục thể đi tới thì không cát lợi. Từ phương vị Lục tương đến, rồi đi tới phương vị Lục thế, thì cát. Phương vị sở tại của Lục thế thì biến đổi theo ngu hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngù hành thủy pháp). Tứ mộ : Phương vị. Chỉ 4 phương Thìn sơn, Tuất sơn, Sửu sơn, Mùi sơn trong 24 sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông nam thiên đông 15 độ (Thìn), tây bắc thiên tây 15 độ (Tuất), đông bắc thiên bắc 15 độ (Sửu) tây nam thiên nam 15 độ (Mùi). Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ mộ thì chỉ có hung, không có cát. Nêu thủy lưu chảy đi phương Tứ mộ, thì cát lợi. Xem mục Kim long. Tứ tuyệt: Phương vị. Chỉ 4 phương Dần sơn. Thân sơn, Tỵ sơn, Hợi sơn trong 24 sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông bắc thiên đông 15 độ (Dần), tây nam thiên tây 15 độ (Thân), đông nam thiên nam 15 độ (Tỵ), tây bắc thiên bắc 15 độ (Hợi). Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ tuyệt thì đại hung. Tứ hung : Phương vị. Phong thủy dương trạch coi phương vị sở tại của 4 hung tinh Lục
57
sát, Ngũ quỉ, Họa hại. Tuyệt mệnh là Tứ hung. Ở vị trí Tứ hung thì phòng ốc nên thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Nếu Du niên của chủ nhà định cung Sinh tại phương vị Tứ hung, thì không nên động thổ sửa chữa. Sinh khí tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Sinh Khí, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Tham Lang, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Cấn. Rất tốt. Âm trạch phong thủy dùng sao này chi phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Tham Lang. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thi Sinh Khí ở phương vị đông nam Tốn ; Đoài trạch thì Sinh Khí ở vị trí Càn, tây bắc. Tại vị trí có Sao Sinh Khí nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nước, chuồng gia súc. Sinh Khí còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. Diên niên tinh : Phương vị. Thương gọi tắt là Diên Niên, một trong cửu tinh. Tương ứng Vũ Khúc, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Đoài. Rất tốt. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Vũ khúc. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Càn trạch thì Diên Niên ở vị trí Khôn, tây nam; Chấn trạch thì Diên Niên ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Diên Niên nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nước. Diên Niên còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. (Xem mục tương ứng) Thiên ất tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Thiên ất, còn gọi là Thiên Y, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Cự Môn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Tốn. Tốt vừa. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Cự Môn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khôn trạch thì Thiên ất ở vị trí Khảm, chính bắc; Ly trạch thì Thiên Ất ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Thiên Ất, nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa; bô trí phòng ở, chuồng gia súc. Thiên ất còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. Thiên y tinh : Phương vị. Tức sao Thiên ất. Xem mục Thiên ất tinh. Lục sát tinh : Phương vị. Thường gọi tắt là Lục Sát, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao văn Khúc, ngũ hành thuộc thủy, bát quái là quẻ Ly, hung (xấu vừa). âm trạch phong thủy dung sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Văn Khúc. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Tốn trạch thì Lục Sát ở vị trí Đoài, chính tây; Cấn trạch thì Lục Sát ở vị trí Chấn, chính đông. Tại vị trí có sao Lục Sát, không nên xây phòng ốc cao lớn, mà nên bố trí nhà bếp, nhà vệ sinh. Lục Sát còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. Ngũ quỉ tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Ngũ Quỉ, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Liêm Trinh, ngũ hành thuộc hỏa, bát quái là quẻ Chấn, đại hung (rất xấu). Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Liêm Trinh.
58
Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Cấn, đông bắc, Ly trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Đoài, chính tây. Tại vị trí có sao Ngũ Quỉ phòng ốc nên thấp bé, nên bố trí chuồng gia súc, nhà vệ sinh. Ngũ Quỉ còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. Họa hại tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Họa Hại, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Lộc Tồn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Càn. Am trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Lộc Tồn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Cấn trạch thì Họa Hại ở vị trí Ly, chính nam; Đoài trạch thì Họa hại ở vị trí Khảm, chính bắc. Tại vị trí có sao Họa Hại phòng ốc nên thấp bé, nên bố trí nhà bếp, chuồng gia súc. Họa hại còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. . Họa hoạn tinh: Phương vị. Tức sao Họa Hại. Xem mục Họa Hại tinh. Tuyệt mệnh tinh : Phương vị. Thường gọi tắt là Tuyệt Mệnh, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Phá Quân, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Khảm. đại hung (rất xấu). Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Phá Quàn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Chấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Đoài, chính tây; Cấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Tuyệt Mệnh, không nên xây phòng ốc cao lớn, chỉ nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Tuyệt Mệnh còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. Phụ Bật tinh : Phương vị . Tên gọi gộp hai sao Tả Phù và Hữu Bật, một trong Cửu tinh. còn gọi là Phục Vị, hoặc Phục Ngâm. Tương ứng sao Phúc đức, tức bản cung, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Khôn. Tốt vừa. Có thuyết coi là hung tinh. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Phụ Bật, Tả phù, Hữu bật. Dương trạch phong thủy lấy Phụ Bật làm chỗ ký gửi phúc đức của chủ nhà, chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thì Phụ bật vị trí Khảm, chính bắc; Khôn trạch thì Phụ Bật ở vị trí Khôn, tây nam. Tại vị trí có sao Phục Vị, tức có cổng chính của ngôi nhà thì mở cửa ở giữa Tam sơn; duy cấn sơn chính là Quỉ môn, chỉ có thể mở cửa ở hai bên Dần sơn, Sửu sơn. Phụ bật làm bản cung, còn là mộït trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. Phục vị: Phướng vị. Chỉ phương vị ký gửi cung Phúc Đức của chủ nhân. Còn gọi là Phục Ngâm hoặc Bản cung, tương ứng sao Phu bật. Cổng lớn của dương trạch đều ở phương vị Phục Vị. Xem mục Phụ bật tinh. Thái tuế : Phương vị. Thời xưa lấy phương đối xứng với Tuế tinh làm Thái tuế. Hung. Ở phương vị sở tại của Thái tuế, 1ớn thì như việc quốc gia cất quân, xây dựng cung điện mở mang bờ cõi, nhỏ thì như việc xây tường sửa nhà, đều phải né tránh nếu phạm tức thị rất xấu. Thái tuế cứ 12 năm sẽ trở lại một vòng, năm Tý ở phương Tý, năm Sửu ở phương Sửu phương vị đối xứng với Thái tuế ở dưới mặt đất gọi là Tuế Hạ, ý nói bên
59
dưới Thái tuế. Tuế phá : Phương vị. Phương đối xứng với Thái tuế là Tuế Phá, thực ra là Tuế tinh sở tại. Hung. Phương vị Tuế Phá sở tại không được động thổ xây dựng, thay đổi hôn nhân, xuất hành đi xa, phạm vào đó thi hao tổn tiền bạc, hại cho gia trưởng. Tuế phá 12 năm trở lại một vòng, năm Tý thì Tuế phá ở Ngọ, năm Ngọ thì ở Tý, vòng trong là 12 chi ghi năm, vòng ngoài là phương vị Tuế Phá sở tại. Tuế hạ : Phương vị. Tức bên dưới sao Thái tuế. Thái tuế ở trên trời, phương vị đối ứng với nó ở dưới đất là Tuế hạ, thực ra là phương vị Thái tuế. Xem mục Thái tuế. Thái tuế thổ: Phong tục thời xưa cho rằng phương vị sở tại của Thái tuế thì không được động thổ tu sửa hoặc xây dựng, nếu phạm sẽ rất xấu. Đồng thời nếu đào thấy trong đất một khối thịt, người trong nhà sẽ bị bạo bệnh mà chết, tức là Thái tuế thổ. Trước thuật thời cố có nhiều ghi chép về điều này. Gần đây ở một huyện nọ thuộc tỉnh Cam Túc có đào được một khối thịt, giám định khoa học cho biết đó là một loại khuẩn mô trắng hiếm thấy gọi là "Thái tuế khuẩn". E rằng đó là "Thái tuế thổ" mà cổ nhân từng gọi. Đại tướng quân : Phương vị. Phương mà Thái tuế "ăn" (che lấp) gọi là Đại tướng quân. Hung. Có hai thuyết. Thuyết thứ nhất nói rằng không được động thổ tu sửa hoặc xây dựng xung phạm Đại tướng quân. Thuyết thứ hai cho rằng nếu động thổ xay dựng ở phương vị Thái tuế, thì người ở phương vị Đại tướng quân sẽ bị tai hoạ. Đai tướng quân thường cư ở Tứ chính, ba năm thay đổi một lần. Ví dụ, nếu Thái tuế ở phương Dần, Mão, Thìn, thì Đại tướng quân ở vị trí Tý, chính bắc. Trong đồ hình, vòng ngoài là nơi sở tại của Đại tướng quân, vòng trong là phương vị sở tại của Thái tuế. Lai lộ để lộ : Phương vị . Phàm người ta di chuyển chỗ ở, nơi từ đó dời đi gọi là Lai lộ, nơi sẽ điều gọi là Để lộ. Ví dụ chuyển từ phương nam lên phương bắc, thì phía nam của nhà ở là Lai lộ, phía bắc của nhà ở là Để lộ. Sửa nhà không nên ở hướng Để lộ, sẽ khiến người ở bất an; còn sửa ở hướng Lai lộ thì không sao. Trùng âm trùng dương : Hương vị. 24 sơn lấy từ truất Sơn thuận chiêu kim đồng hồ đến Ất sơn là dương, từ Thìn sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Lại lấy 12 sơn là Càn, Giáp Khôn, Ất, Khảm (Ty), Quý, Thân, Thìn, Ly (Ngọ), Nhâm, Dần, Tuất lam dương; lấy 12 sơn Cấn, Bính, Tốn, Tân, Chấn (Mão), Canh, Hợi, Mùi, Đoài (Dậu), Đinh, Ty, Sửu làm âm. Thuật Phong thủy cho rằng dương hoặc âm không nên vượng một ình, phải phối hợp với nhau mới là tốt, bởi vậy chủ trương dương trạch nên tu sửa ở phương âm, âm trạch nên tu sửa ở phương dương. Nếu dương trạch lại tu sửa ở hướng dương, gọi là trùng dương, âm trạch tu sửa ở phương âm, gọi là trùng âm, đều không tốt. Tử khí : Phương vị. Chỉ phương vị cố định nào đó đối xứng với Sinh Khí trong xây dựng nhà ở. Trong một năm, vị trí của Tử khí thay đổi tùy từng tháng. Tử khí vào tháng Giêng
60
đóng ở Ngọ, Đinh (chính nam và nam thiên sang tây 15 độ). Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tháng Hai ở Mùi, Khôn; tháng Ba ở Thân, Canh , tháng Tư ở Dậu, Tân; tháng Năm ở Tuất, Càn; tháng Sáu ở Hợi, Nhám, tháng Bảy ở Tý, Quý; tháng Tám ở Sửu, Cấn. tháng Chín ở Dần, Giáp; tháng Mười ở Mão, ất; tháng Mười một ở Thìn, Tốn, tháng Chạp ở Tỵ, Bính. Mỗi năm Tử khí khởi đầu từ chính nam, thuận chiều kim đồng hồ xoay một vòng, ở vị trí đối diện với Sinh khí. Nếu tu sửa hoặc xây dựng nhà ở mà xung phạm Tử khí, thì sẽ bị tai họa. Thổ khí : Phương vị. Phong thủy dương trạch cho rằng tu sửa hoặc xây dựng nhà ở sẽ động thổ, làm kinh động thổ khí. Thổ khí bị kinh động, một phương vi cố định nào đó bị xung phạm, thì người sống ở phương vị ấy sẽ gặp tai họa. Ở phương vị đo cần được yểm, trấn. Phương vị thổ khí bị xung phạm trong một năm sẽ khác nhau tùy từng tháng: tháng Giêng ở Đinh , Mùi (chính bắc và tây bắc thiên sang bắc 15 độ). Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tháng hai ở Khôn, tháng ba ở Nhâm. Hoả ; tháng Tư ở Tân, Tuất; tháng năm ở Càn; tháng Sáu ở Dần, Giáp, tháng Bảy ở Quý, Sửu; tháng Tám ở Cấn; tháng Chín ở Bính, Tỵ, tháng Mười ở Thìn, Ất; tháng Mười một ở Tốn; tháng Chạp ở Thân, Canh. Chỉ có 4 phương vị chính nam (Ngọ), chính bắc (Tý), chính đông ( Mão), chính tây (Dậu) là thổ khí không bị xung phạm. Nhị thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp Phương vị. Phương pháp phối hợp 24 sơn với Chính Ngũ hành, Tràng sinh Ngũ hành và Cửu tinh. Căn cứ phương vị của Lai long để biểu thị cát hung của phương vị thủy chảy đến và chảy đi. Trình tự cụ thể như sau: trước hết đem 24 sơn phối thuộc Ngũ hành theo ca quyết "Giáp dần thìn tốn đại giang thủy, tuất khảm (Tý ), thân tân thủy tổng đồng. Chấn ( mão) Cấn tỵ sơn người thuộc mộc, ly ( ngọ) nhâm bính ất hỏa vi tông". (Thanh nang hải giác kinh ). Khi đã định tính chất Ngũ hành của 24 sơn ất sẽ phân chia 5 cục kim mộc, thủy, hỏa, thổ, khởi Tràng sinh từng cục, đồng thời tạp phối Cửu tinh, tổng cộng được 24 vị trí, tương ứng 24 sơn. Trong đó kim cục khởi Tràng sinh ở Tỵ sơn, mộc cục khởi Tràng sinh ở Hợi sơn; thủy cục và Thổ cục khởi Tràng sinh ở Thân sơn; hỏa cục khởi Tràng sinh ở Dần sơn. Tràng sinh Ngũ hành phối hợp với Cửu kinh (thực ra chỉ với 7 sao) xếp theo trật tự thuận và trạng thái cát hung như sau : Tràng sinh (cát), Tham Lang (cát); Mộc dục (hung), Văn khúc (hung), quan đới (hung), Văn khúc ( hung), lâm quan (cát) Vũ khúc ( cát), Đế vương (cát), Vũ khúc (cát ), Suy ( hung ), Cự môn (hung), Bệnh (hung), Liêm trinh (hung), Tử ( (hung), Liêm trinh (hung), Mộ (hung ), Phá quân (hung), Tuyệt (hung), Lộc tồn (hung) Dưỡng (cát), Tham lang (cát). Lấy 24 vị trí, khởi từ Tràng sinh, thuận chiều kim đông hồ, sắp xếp 24 sơn tương ứng. Câu ca là: "Dưỡng sinh Tham lang vị, Quan đới Mộc dục văn, Vũ khúc làm quan vượng, phùng suy thị Cự môn. Liêm trinh đa bệnh tử, đại mộ thuộc Phá quân, tuyệt thai thị Lộc tồn, thất diệu nhất khởi phân". (Thanh nang hải giác kinh). Do 5 cục khởi Tràng sinh khác nhau nên Tràng sinh Ngũ hành sau khi phối với Cửu tinh tại 24 sơn tương ứng mỗi cục cũng khác nhau. Dưới đây chỉ nêu ví dụ thủy cục và thổ cục khởi Tràng sinh. Các cục khác có thể suy diễn tương tự. Đã biết phương vị của 24 sơn tương ứng với Tràng sinh Ngũ hành, Cửu tinh, thì có thể suy ra phương vị đến và đi nào của thủy là cát hoặc là hung. Nguyên tắc cơ bản là nên từ phương sinh vượng (phương cát ) chảy đến, và chảy đi phương tử tuyệt (phương hung). Ví dụ, Tý sơn lai long. Về Ngũ hành tý sơn thuộc thủy, thủy cục khởi Tràng sinh tại Thân, nên phàm là 4 phương vị Canh sơn (tương ứng Tham
61
lang), Mùi sơn (tương ứng Dưỡng), Khôn sơn (tương ứng Than Lang), Thân sơn (tương ứng Tràng sinh ), mà có thủy chảy đến, thì đều chủ có nhiều phú quý; còn phương vị Dậu sơn (tương ứng Mộc dục), Tân sơn (tương ứng Văn khúc) thủy chảy xộc đến thì chủ phụ nữ trong nhà dâm loạn; lai thủy phương vị Cấn sơn (tương ứng Mộ) chủ người trong nhà bị hình phạt; lai thủy phương vị Can sơn (tương ứng Văn khúc), Tân sơn (tương ứng Văn khúc), chủ trong nhà có dịch bệnh. Nếu lai thủy chảy về phương sinh vượng, thì không có gì đáng lưu luyến đất này. Nếu thủy chảy đi về hướng phương vị Bính sơn (tương ứng Lộc tồn) , Tốn sơn (tương ứng Phá quân), chủ đời sau có công khanh. Ca nói : "Tý sơn địa, Canh Mùi cập Khôn Thân. Tứ vị triều lai đa phú quí, Dậu tân xạ nhập phụ nhân dâm. Long (Thìn) tẩu nhập, định tao hình. Lưu Phá, Sinh, Vượng bất tu tầm. Văn khúc triều lai động ôn hỏa, như lưu Bính, Tốn xuất công khanh, lai khứ yếu phân minh" (Thanh nang hải giác kinh). Nói chung chỉ cần nhớ rằng thủy từ thường sinh vượng chảy đến và chảy đi về hướng tử tuyệt là cát thì đủ rồi. Tràng sinh Ngũ hành : Tức Ngũ hành ký sinh 12 c ung. Vốn chỉ trạng thái khác nhau trong 12 tháng của Ngũ hành theo trình tự Tuyệt, Thai, Dưỡng, Tràng sinh, Mộc Dûục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ. Thuật Phong thủy mượn các tên gọi ấy để chỉ trạng thái cát hung của phương vị, trong đó Tràng sinh, Dưỡng, Lâm quan, Đế vượng là cát, còn lại đều hung. Cũng có khi coi Quan đới, Mộc dục cũng là cát. Tràng sinh Ngũ hành trong thuật Phong thủy chỉ phương vị, tùy Ngũ hành sở thuộc khác nhau của 24 sơn mà biến đổi, trong đó tác dụng chủ yếu là biểu thị phong vị thuỷ lưu chảy đến và chảy đi. Xem thêm mục Nhị thập tứ sơn Ngũ hành thủy pháp. Đại du niên biến hào pháp : phương pháp tính toán phương vị bát quái Cửu tinh ký gửi cung phúc đức của chủ nhà dùng để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà. Trình tự cụ thể như sau. Trước hết, căn cứ phép Tam nguyên tính xem mệnh của chủ nhà ký gửi ở cung nào (tên quẻ ), tức cung Phúc đức, hoặc còn gọi là Bản cung; sau đó khởi từ bản cung tính Cửu tinh theo trật tự thuận cùng phương vị sở tại. Phải sử dụng phép biến hào tức là phải biến đổi ba hào trên, giữa, dưới của quẻ ký gửi Bản cung, hào dương thì biến thành âm, hào âm thì biến thành dương, từ đó mà biết được phương vị Cửu tinh. Lấy quẻ Càn làm ví dụ. Nếu mạng của chủ nhà ký gửi ở quẻ Càn, biến hào trên sẽ thành quẻ Đoài, là Sinh khí; biến hào trên và hào giữa, sẽ thanh quẻ Chấn là Ngũ quỉ; biến hào trên và hào dưới sẽ thành quẻ Khảm, là Lục sát; biến hào giữa sẽ thành quẻ Ly, là Tuyệt mệnh. biến hào giữa và hào dưới, sẽ thanh quẻ Cấn, là Thiên ất hoặc còn gọi là Thiên y; biến hào dưới, sẽ thành quẻ Tốn, là Họa hại; biến cả ba hào sẽ thành quẻ Khôn, là Diên niên; cả ba hào đều không biến thì vẫn là quẻ Càn, là Phụ bật, hoặc còn gọi là Phục vị, tức cung Phúc đức, hoặc Bản cung. Trong Cửu tinh, lấy Sinh khí, Diên niên, Thiên Ất, Phụ bật làm 4 cát tinh; con Họa hai, Lục sát, Ngũ quỉ, Tuyệt mệnh làm 4 hung tinh; cũng có thuyết coi Phụ bật là hung tinh. Do phương vị bát quái đã định, tức là cung Phúc đức sở tại, ta đem Cửu tinh (thực ra chỉ có 8 sao) sắp xếp theo trật tự thuận trên bề mặt 8 vị trí của nhà ở (Tứ chính và Tứ ngung), thì có thể phán cát hung, chỉ đạo việc xây dựng nhà ở. Vì sự biến hào quá rắc rối, cho nên các trước tác Phong thủy nói chung đưa ra cách bố trí thứ tự Cửu
62
tinh bát quái như sau : Càn trạch là Càn ( Phúc đức, Phụ bật, Phục vị, từ đây xuống dưới cũng như vậy), Lục sát, Thiên Ất, Ngũ quỉ, Hoạ hại, Tuyệt mệnh, Diên niên, Sinh khí, Khảm trạch là Khảm, Ngũ quỉ, Thiên ất, Sinh khí, Diên niên, Tuyệt mệnh, Họa hại, Lục sát. Cấn trạch là Càn, Lục sát, tuyệt mệnh, họa hại, Sinh khí, Diên niên, Thiên Ất, Ngũ quỷ. Chấn trạch là Chấn, Diên niên, Sinh khí, Họa hại, Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ. Thiên ất, Lục sát. Tốn trạch là Tốn, Thiên ất, Ngũ quỷ, Lục sát, Hoạ hại, Sinh khí, Tuyệt mệnh, Diên niên, Ly trạch là Ly, Lục sát, Ngũ quỷ, tuyệt mệnh, Diên niên, Hoạ hại, Sinh khí, Thiên ất. Khôn trạch là khôn, Thiên ất, Diên niên, Tuyệt mệnh, Sinh khí, Hoạ hại, Ngủ quỷ, lục sát, Đoài trạch là đoài, Sinh khí, Hoạ hại, Diên niên, Tuyệt mệnh, Lục sát, Ngũ quỷ, Thiên Ất. Đối chiếu trật tự sắp xếp trên, có thể phân biệt phương vị cát hung của 8 phía nhà ở. Tam nguyên pháp: Phương pháp căn cứ trình tự nhất định mà tính toán bát quái ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Còn gọi là "Phúc nguyên Pháp". Tam nguyên tức là thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Lục thập (60) Giáp Tý là một nguyên. Tam nguyên cộng là 180 năm. Trước hết cần biết niên đại khởi đầu hoặc chấm dứt ở Giáp Tý thượng nguyên, trung nguyên hay hạ nguyên. Qui định rằng năm 1504 (năm thứ 17 niên hiệu Hoằng Trị, Giáp Tý, đời nhà Minh ) là Thượng nguyên Giáp Tý, năm 1564 (năm thứ 13 Gia Tĩnh, Giáp Tý, đời nhà Minh) là Trung nguyên Giáp Týù, năm 1624 (năm thứ 4 Thiên Khải, Giáp Tý, đời nhà Minh ) làm hạ nguyên Giáp Tý. Từ năm 1504 trở về trước và từ năm 1684 trở về sau, cứ 180 năm là một Tam nguyên mà tính mãi mãi. Ví dụ, năm 1864 1à Thượng nguyên Giáp Tý, năm 1924 là Trung nguyên Giáp Tý, năm 1984 là Hạ nguyên Giáp Tý, năm 2044 lại là Thượng nguyên Giáp Tý. Khi đã biết tam nguyên Giáp Tý, căn cứ giản đồ Dã mã Khiêu ta tính trên các ngón tay, theo khẩu quyết : "Dã mã khiêu giản tấu, tòng Dân số đáo Cẩu (Tuất). Nhất niên cách nhất vị, bất dụng Hợi, Tý, Sửu". Khẩu quyết phối hợp Tam nguyên pháp : "Thượng nguyên giáp tý nhất cung liên, Trung nguyên khởi Tốn hạ Đoài gian. Thượng ngũ trung nhị hạ bát nữ, nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên"(Dương trạch thập thư). Ngoài ra qui định nam ở 5 trung thì ký gửi tại Khôn, nữ ở 5 trung thì ký gửi tại Cấn. Cách tính cụ thể như sau : trước hết tra xem can chi nam sinh của chủ nhà nam hoặc nữ, xem thuộc nguyên nào trong tam nguyên; sau đó tính theo khẩu quyết. Nếu chủ nhà là người sinh năm Bính Dần thượng nguyên, thì áp dụng câu "Thượng nguyên giáp tý nhất cung liên", tức là nam sinh trong 60 năm thượng nguyên, thì khởi nhất Khảm ở vị trí Dần, nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên, tức là nam thì tính số theo chiều nghịch , nữ thì đếm số theo chiều thuận, vậy sau 1 sẽ đến 9 Ly ở vị trí Tuất, là năm Ất Sửu, đó là do "nhất niên cách nhất vị, bất dụng Hợi Tý Sửu", cho nên phải chuyển tới 9 Ly, vị trí Tuất. Tính nghịch tiếp đến số 8 là Cấn, vị trí Dậu, là năm Bính Dần, ắt sẽ biết cung Phúc đức của chủ nhà là ở Cấn. Nếu chủ nhà là người sinh năm Qúy Hợi, thuộc Hạ nguyên, trung nguyên khởi Tốn, Hạ Đoài gian", tức là nam giới sinh vào Trung nguyên, thì năm Giáp tý khởi tính từ số 4 ở vị trí Tỵ, còn người sinh vào Hạ nguyên thì khởi tính từ số 7 Đoài, ở vị trí Thân. Vậy là năm Giáp Tý hạ nguyên tính từ sô 7 Đoài ở Thân, đếm nghịch đến 6 càn ở Mùi là năm Ất Sửu, đến 5 trung ở ngọ là năm Bính Dần, đến 4 Tốn ở Ly là năm Đinh Mão, đến 3 Chấn ở Thìn là năm Mậu Thìn, đến 2 khôn ở mão là năm Kỷ Tỵ, đến 1 Khảm ở Dần là năm canh Ngọ, nhảy sang 9 Ly ở Tuất ( vì bỏ qua Hợi tý sửu) là năm Tân Mùi đến 8 Cấn ở Dậu là năm Nhâm Thân, tiếp đến 7
63
Đoài ở Thân là nărn Quý Dậu. Do năm Quý Hợi ở cuối 60 giáp tý, nếu cứ tính lần lượt từng năm một như thế thì quá phiền toái. Trên bàn tay Dã mã khiêu có 9 vị trí, trong 60 giáp tí cứ 10 năm thì thiên can lặp lại một lần, mỗi lần một vị trí, thực tế mỗi vị trí vừa vặn cách nhau 1o năm; do đó ta có thể đơn giản hóa quá trình tính toán. Như vậy, khi tính nghịch đến 6 Càn ở Mùi là năm Quý Mùi cách năm Quý Dậu 10 năm, đến số 5 trung ở Ngọ là năm Quý Ty, đến số 4 Tốn ở Tỵ là năm Quý Mão, nên số 3 Thìn ở thìn là năm Quý Sửu, đến số 2 Khôn ở mão sẽ là năm Quý Hợi, ắt ta biết Phúc đức của chủ nhà ấy nằm ở Khôn. Nếu chủ nhà là nữ giới, theo câu : "Thượng ngũ trung nhị hạ bát nữ" tức là Nữ sinh vào thượng nguyên giáp ty thì khởi 5 trung ở Ngọ, sinh vào trung nguyên giáp tý thì khởi tính 2 khôn ở mão, sinh vào hạ nguyên giáp Tý thì khởi Bính 8 Cấn ở Dậu. Nếu nữ chủ nhà sinh năm ất Dậu thuộc trung nguyên, thì khởi tính 2 Khôn ở Mão, rồi "nam nghịch nữ thuận", vậy theo chiều thuận sau 2 sẽ đến 3 Chấn ở Thìn là năm Ất Sửu .Tương tự, cứ cách 10 năm một vị trí. Đến 4 Tốn ở Tỵ là năm Ất Hợi, đến 5 trung ở Ngọ là năm ất Dậu, nữ giới ở vị trí 5 thì ký gửi ở Cấn, ắt biết cung Phúc đức của người này ở Cấn. Khi đã biết cung Phúc đức của chủ nhà (nam hoặc nữ), theo phép "Đại du niên biến hào", ta sẽ biết Bản cung của họ ở đâu, trật tự sắp xếp Cửu tinh ra sao, phương nào là cát tinh thì mở cổng, xây phòng cao to, phương nào là hung tinh thì xây phòng ốc thấp nhỏ, bố trí chuồng gia súc. TRẠCH HÌNH
Dung huyệt: 1) Chỉ nền đất của nhà ở, thôn xóm, thành trấn (thành thị, thị trắn), gọi là huyệt trường của dương trạch, điểm dương huyệt" tức là xác định nền đất và phạm vi của một địa chi nào đó. 2) Mộ huyệt có phân ra âm và dương; âm long mà kết huyệt âm thì chủ bị nói xấu, phá hại gia sản; dương long mà kết huyệt dương, chu sự sinh li tử biệt. Phân biệt âm dương thì căn cứ vào vị trí âm hay dương mà xác định. Chính huyệt: Chỉ trung tâm của thành trấn. Tức Chính trung của Dương huyệt. Đất là nơi xây cất công trình chính, nếu ở kinh đô thì là nội thành cung điện, hoàng cung; nếu ở tỉnh thành thì đó là dinh tỉnh trưởng, ở châu huyện là công đường. Cho nên, xây dựng kinh đô thì trước hết phải xây dựng ở trung tâm (Chính huyệt) tông miếu, cung điện; xây dựng tỉnh thành thì trước tiên xây dựng dinh thự quan nha; xây dựng châu huyện thì trước hết chọn Chính huyệt xây dựng công đường chính trị, thứ đến kho lẫm, nhà lao. Thuật Phong thủy coi đây là bảo đảm thể hiện thể chế tông pháp phong kiến trong kiến trúc thành trấn, cũng là một đặc trưng kiến trúc đô thị của Trung Quốc thời cổ. Trạch hình: Tức hình dáng của nhà ở, chia ra hai loại trong và ngoài. Hình dáng bên ngoài của nhà ở là chỉ vị trí, hình dạng, địa hình tứ phía cùng cảnh vật kiến trúc của toàn bộ ngôi nhà. Hình dáng bên trong của nhà ở thì chỉ hình dạng,vị trí của mọi vật kiến trúc cùng hình thức phối hợp giữa chúng với nhau. Thuật Phong thủy cho rằng hình dáng bên ngoài của nhà ở liên quan đến khí thế của mạch đến, nếu không tốt, thì dù hình dáng bên trong có hay mấy, cũng sẽ không toàn vẹn. Hình dáng bên ngoài của nhà ở lấy vị trí địa thế của nhà ở làm yếu tố quan trọng nhất, nói chung nhấn mạnh yêu cầu địa thế bằng phẳng, Minh đường rộng rãi, trước sau có thủy bao bọc, thủy khẩu cách nhà không quá xa. Kiến trúc cảnh vật xung quanh cũng rất quan trọng. Tốt nhất là bên trái nhà ở có dòng
64
chảy, bên phải có đường đi, đằng trước có ao, sau lưng có gò cao, gọi là đất “Tứ thần tương ứng". Nhà ở không nên nằm ngay giao lộ, năm cạnh quan nha hầm hố, câu, nhà lao, không nên ở chỗ cây cỏ không thể mọc nổi, không nên có giếng nước ở ngay trước cổng ... Nhà ở tại các quần thể kiến trúc, như thôn trấn, thành phố, thì điều kiện tự nhiên chi phối căn nhà là phụ; chủ yếu phải xem xét mối tương quan hài hòa với cảnh vật kiến trúc xung quanh, đồng thời so sánh Sa, Thuỷ. Ca nói: “Vạn ngõa lân lan thị tỉnh trung, cao liên tầng tích thị lai long” (Dương trạch tập thành; quyển 1), lại nói : “Nhất tầng nhai cù vi nhất tầng thủy, nhất tầng tường ngõa vi nhất tầng sa. Môn tiền nhai đạo tức thị Minh đường, đối diện thất vũ tức vi án sơn”. (mỗi đường phố coi như một dòng nước chảy, mỗi bức tường là một lớp Sa, Đường phố trước cửa tức là Minh đường đối diện phía trước ngôi nhà tức là Án sơn) (Dương trạch hội tâm tập ). Nghĩa là các mái nhà liên tiếp nhau tức là Long, căn cứ vào các đường hẻm để luận khí, còn đường phố là thủy đạo vậy. Qui định về hình dáng nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một trăm điều, chỉ nêu ví dụ vài điều, như hình 198. Hình dáng bên trong của nhà ởchủ yếu là vị trí, dạng thức, độ cao thấp của các vật kiến trúc trong nhà, ví dụ qui định cột phòng chính phải dùng số 9, cột sảnh dùng số 7, cứa dùng số chẵn. Thuật Phong thủy cho rằng mở cửa phía tây là “bạch hổ há mồm" thì không cát. Cối giã gạo không được nằm cùng một hàng với lai long. Bên ngoài cổng không được xây dựng thêm phòng ốc; bên trên cổng không được xây dựng lầu. Trong nhà không nên có phòng ốc hình chữ Đinh, không nên có đường đi xuyên tâm. Phương vị mở cửa, độ cao thấp của phòng ốc chủ yếu căn cứ vào phương vị Cửu tinh rnà xác định. Việc bố trí giếng nước, chuồng gia súc, nhà vệ sinh, nhà bếp cũng vậy. Qui định về hình dáng bên trong nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một trăm điều, chi nêu ví dụ vài điều, như hình 199. Phần lập luận trong Thuật Phong thủy liên quan đến hình dáng nhà ở có một bộ phận là sự tích lũy và đúc kết kinh nghiệm lâu dài, ví dụ nhà ở không nên hẹp theo chiều nam bắc. dài theo chiêu đông tây. không nên bốn phía là đường lớn không năm trên sống núi, chỗ cửa gió...Có một bộ phận mang tính chất mê tín, còn lại thì liên quan đến tập quán truyền thống dân tộc và quan niệm thẩm mỹ. Tam yếu lục sự : Hình dáng nhà. Tổng kết những nhân tố quan trọng liên quan đến xây dựng nhà ở của Phong thủy dương trạch. Tam yếu gồm : chủ, môn, táo, tức là mệnh của chủ nhà phối họp với ngôi nhà, hướng mở cổng và cửa. vị trí của bếp. Lục sự gồm : môn (cồng cửa), táo (bếp), tỉnh (giếng nước), lộ (lối đi), xí (nhà xí), cối giã gạo, những vị trí nên hoặc kỵ của các nhân tố đó. Tĩnh trạch : Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở chỉ có 1 dãy hay 1 phòng. Vì số dãy, phòng ít, nên phương vị của cửu tinh ngũ hành về cơ bản là cố định, không cần thay đổi vị trí, độ cao thấp của vật bài trí khi cửu tinh thay đổi. Động trạch : Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở có từ 2 - 5 dãy hoặc phòng. Vì số dãy, số phòng nhiều, nên cửu tinh ngũ hành sẽ biến đổi có qui luật theo dãy phòng và phương vị cổng, phương vị và độ cao thấp của vật bài trí trong nhà cũng thay đổi tùy theo sự biến động của cửu tinh ngũ hành.
65
Bát trạch : Dựa theo phương vị Toạ, Hướng cùng phương vị mở cửa của nhà ở, chia thành bát quái, cả thảy có 8 loại, gồm : Càn trạch, Ly trạch, Đoài trạch, Khảm trạch, Cấn trạch, Tốn trạch, Khôn trạch, Chấn trạch, Cửu tinh sẽ biến động có qui luật theo sự khác nhau của mỗi loại nhà tại phương vị sở tại, từ đó có thể phán đoán lành dữ, chỉ dẫn xây dựng, sửa chữa. Thuộc tính bát quái của nhà ở là cố định, phương vị của Tọa Hướng và cửa cũng theo đó mà xác định, nhưng do có thể đặt cửa ở hai bên trái phải của bốn quẻ Ngẫu : Càn, Khảm, Tốn, Cấn , nên nhà ở thực ra có tới 12 Toạ hướng và cửa khác nhau, đó là: Tọa nam Hướng bắc cửa Khảm, Tọa bắc Hướng nam cửa Ly, Tọa đông hướng tây cửa Đoài, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn, Tọa nam Hướng bắc cửa Càn, Tọa đông Hương tây cửa Càn, Tọa bắc Hướng nam cửa Khôn, Tọa đông Hướng tây cửa Khôn, Tọa nam Hướng bắc cửa Cấn, Tọa tây Phương đông cửa Cấn, Tọa bắc Hướng nam cửa Chấn, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn. Đông tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Chấn trạch, Tốn trạch, Khảm trạch và Ly trạch là Đông tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Chấn, Tốn, Khảm, Ly thì nên sống ở ngôi nhà Đông tứ trạch. Tây tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Càn trạch, Khôn trạch, Cấn trạch, Đoài trạch là Tây tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Càn, Khôn, Cấn, Đoài thì nên sống ở ngôi nhà Tây tứ trạch. Khảm trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở chính hướng bắc Khảm, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Khảm trạch theo chiều thuận lần lượt là Khảm (Phúc đức), Ngũ quỉ (đông bắc )- Thiên ất ( chính đông ), Sinh khí (đông nam), Diên niên (chính nam), Tuyệt mệnh (tây nam), Hoạ hại (chính tây), Lục sát (tây bắc ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tinh từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà ở thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; Ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. ..Xem mục đông tứ trạch. Ly trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hướng nam, mở cửa ở chính phương nam Ly, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Ly trạch theo chiều thuận lần lượt là Ly (Phúc đức), lục sát (tây nam), Ngũ quỷ (chính tây), Tuyệt mệnh (tây bắc), Diên niên (chính bắc), Hoạ hại (đông bắc), Sinh khí ( chính đông), Thiên ất (đông nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quì, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí... Chấn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa tây hướng đông,
66
mở cửa ở chính hướng đông Chấn, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Chấn trạch theo chiều thuận lần lượt là Chấn (Phúc đức), Diên niên (đông nam), Sinh khí ( chính nam), Hoạ hại (tây nam), Tuyệt mệnh (chính tây), Ngũ quỉ (tây bắc), Thiên ất (chính bắc), Lục sát (đông bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất. Bất kể trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương bị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí giường ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí . . Tốn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Tốn trạch do toạ hưởng khác nhau mà chia làm hai; một là ngôi nhà tọa tây phương đông, mở cửa ở hướng đông nam Tốn: hai là ngôi nhà toạ bắc hướng nam và mở cửa ở hướng đông nam Tốn; thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Tốn trạch theo chiều thuận lần lượt là Tốn (Phúc đức), Thiên Ất ( chính nam), Ngũ quỉ (tây nam), lục sát ( chính tây), Hoạ hại (tây bắc), Sinh khí (chính bắc), Tuyệt mệnh ( đông bắc), Diên niên ( chính bắc ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ bắc hướng nam mở cửa hướng Tốn thì sắp xếp Cửu tinh cung giống như nhà toạ tây hướng đông, lần lượt tính từ ngăn thứ nhất là Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ . Bất kể toạ tây hay toạ bắc, bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí... Càn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Càn trạch do toạ hướng khác nhau nên chia làm 2; một là ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Càn tây bắc, và hai là ngôi nhà toạ đông phương tây cũng mở cửa ở hướng Càn tây bắc; thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Nhà toạ nam hướng bắc thì phương vị sắp xếp Cửu tinh của Càn trạch theo chiều thuận làn lượt là Càn (Phúc đức), Lục sát ( chính bắc), Thiên ất ( đông bắc), Ngũ quỉ ( chính đông), Hoạ hại ( đông nam), Tuyệt mệnh ( chính nam), Diên niên ( tây nam), Sinh khí ( chính tây ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ đông hướng tây mở cửa hướng Càn thì Cửu tinh sắp xếp cũng giống như ngôi nhà toạ nam hướng bắc mở cửa hướng Càn, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong là Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài loại nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. . . Đoài trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa đông hướng tây, mở cửa ở hướng chính tây Đoài thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp
67
xếp Cửu tinh của trạch theo chiều thuận lần lượt là Đoài (Phúc đức), Sinh khí (tây bắc), Hoạ hại (chính bắc), Diên niên ( đông bắc), Tuyệt mệnh ( chính đông): Lục sát (đông nam), Ngũ quỷ (chính nam), Thiên ất ( tây nam ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí .. . Khôn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Khôn trạch do tọa hướng khác nhau nên chia làm hai loại; một là ngôi nhà tọa đông hướng tây, mở cửa hướng Khôn tây nam, và hai là nhà tọa bắc hướng nam, mở cửa ở hướng Khôn tây nam, thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ đóng hướng tây, mở cửa hướng Khôn tây nam theo chiều thuận lần lượt là Khôn (Phúc đức), Thiên ất (chính tây), Diên niên ( tây bắc), Tuyệt mệnh ( chính bắc), Sinh khí ( đông bắc), Hoạ hại ( chính đông), Ngũ quỹ ( đông nam ), Lục sát (chính nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất. Nhà tọa bắc hướng nam mở cửa hướng Khôn tây nam cũng sắp xếp Cửu tinh giống như nhà tọa đóng hướng tây nói trên, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ dãy hoặc ngăn thứ nhất lần lượt là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỷ Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài hai loại nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng nghỉ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí... Cấn trạch : Một trong bát trạch . Thuộc Tây tứ trạch. Cấn trạch chia ra hai loại, một là nha toạ tây phương đông mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, hai la ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ tày hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn, Dần sơn, đông bắc, theo chiều thuận lần lượt là Cấn (Phúc đức). Lục sát ( chính đông), Tuyệt mệnh (đông nam), Hoạ hại (chính nam), Sinh khí ( tây nam), Diên niên ( chính tây). Thiên ất (tây bắc), Ngũ quỉ ( chính bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngu quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Nhà tọa nam hướng bắc , mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thì sắp xếp Cửu tinh cũng giống như nhà tọa tây hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ ngăn thứ nhất lần lượt là Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài thì hai loại nhà này ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước: chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cói giã gạo, nhà xí... Đặc thù của Cấân trạch là ở Cấn là Quỉ môn, mở cửa không tốt; chỉ nên mở cửa ở Dần sơn, Sửu sơn là hai bên phải trái của Cấn son, chứ không thể ở chính Cấn sơn. Chu địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, gọi là Chu địa . Còn có tên khác là đất Địa tàng. Quân tử cư trú ở đây tốt, chủ phú quí liên tục. Tiểu
68
nhân mà cư trú ở đất này thì hung. Câu ca nói : “Trung ương chính diện tứ diện cao, tu cái trung trạch phúc hữu dư. Ngưu dương lục súc đa hưng vượng, gia đạo cao quí xuất anh hào". (Dương trạch thập thư). Hàn địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở rìa phía bắc cao, rìa phía nam thấp, gọi là Hàn địa . Còn có tên là đất Trạch tàng. Cư trú ở đây cực tốt. Tề địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông có lưu thủy thì gọi là Tề địa. Cư trú ở đây tốt. Ngụy địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía nam có lưu thủy thi gọi là Ngụy địa. Cư trú ở đây tốt. Cung địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, lại có vũng nước. Cư trú ở đây tốt. Lương thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bằng phẳng, không lồi lõm hoặc ở giữa hơi lồi lên một chút thì gọi là Lương thổ. Cư trú ở đây tốt. Tấn thổ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước thấp sau cao thì gọi là Tấn thổ. Cư trú ở đây tốt. Lỗ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông thấp, phía tây cao, thì gọi là Lỗ thổ. Con trai cả sống ở đất này thì hưng vượng, phú quí anh hào. Nếu địa thế âm trạch mà phía đông thấp, phía tây cao, thì lại không Tốt. Tề thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước cao sau thấp thì gọi là Tề thổ. Cư trú ở đây không tốt Vệ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp thì gọi là Vệ thổ. Cư trú ở đây không tốt Tú thần tương ứng: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm phía đông nhà có dòng chảy là Thanh long, phía tây nhà có đường đi là Bạch hổ, phía nam có ao hồ là Chu tước, phía bắc có gò đống là Huyền vũ. Có đủ 4 thủ đó gọi là cách tứ thần tương ứng, là đất đại cát đại quí. Cư trú ở đây cực tốt Huyền vũ thú: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía sau (phía bắc) nhà ở có gò đống hoặc công trình kiến trúc cao thì gọi là Huyền vũ thủ ( Huyền vũ trấn giữ). Cư trú ở đây đại cát Chu tước môn : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía trước (phía nam) nhà ở địa thế trải rộng ra gọi là Chu tước môn. Cư trú ở đây đại cát.
69
Tứ phương vị : Địa hình bên ngoài nha ở. Bốn phía nhà ở bị các con đường bao vây, gọi là đất Tứ phương vị. Cư trú ở đây rất xấu. Câu ca nói : "Tứ diện giao đạo chủ hung tàn, họa khởi nhân gia bất khả đương, nhược bất tôn tài tai họa tử, đầu hà tự vẫn tỉnh trung vong" (đường vây bốn phía chủ hung tàn, tai họa ập đến người ta kho bề chống đỡ, nếu không tốn tiền thì cũng chết người, nhảy xuống sông xuống giếng mà tự vẫn) (Dương trạch thập thư). Huyết bàn chiếu kinh : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phong thủy dương trạch lấy phía trước nhà ở có ao hồ hình vuông là “Huyết bàn chiếu kính". Cư trú ở đây rất xấu. Có thuyết nói rằng phàm phía trước nhà mà có đào ao hồ mới thì đều là Huyết bàn chiếu kính, không tốt. Câu ca nói : “Nhược hữu thử đường đương diện tiền, đại đại lao tật bất thậm ngôn. Nhất đường tiện đoạn nhất nhân táng, hà sủng bất dữ ngoại nhân truyền" (nếu nhà có ao vuông ở ngay phía trước, thì đời nọ tiếp đời kia bị bệnh lao, mỗi ao làm chết một mạng người). Tây ích trạch : Địa hình bên ngoài nhà ở. Tức là làm thêm phòng ốc vào phía tây ngôi nhà cũ. Phong tục cổ của người Trung Quốc cho rằng Tây ích trạch là không tốt. Phong tục này có từ thời Xuân thu Chiến quốc, rất thịnh hành vào đời Hán, là một trong điều đại kỵ. Sách Phong tục không giải thích : "Phong tục coi phía tây là cao nhất, làm thêm phòng ốc ở phía đó sẽ hại cho chủ nhà, nên mới có sự cấm ky đó". Có thuyết nói Đông ích trạch (làm thêm phòng ốc vào phía đông nhà cũ) cũng không tốt. Xung hạng : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính của nhà ở bị đường hẻm đâm thẳng vào. Cư trú ở đây không tốt. Phong thủy dương trạch coi đường hẻm là thủy đạo (dòng nước ), Xung hạng chẳng khác gì bị dòng chảy xối, bắn thẳng vào, cho nên phải tránh. Cách né tránh là làm cổng chếch đi hoặc dùng bùa trấn áp. Chúng để sát : Địa hình bên ngoài nhà ở . Ch ỉ ngôi nhà nằêm trái ngược với hướng của các công trình xây dựng xung quanh. Không tốt. Thuật Phong thuỷ mượn cách này để nhấn mạnh tính nhất trí, hài hòa của cả quần thể kiến trúc. Địa đài : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ khoảng đất trống đằng trước nhà, tức Minh đường. Yêu cầu Địa đài của nhà này không được cao hơn Địa đài của hai nhà bên phải bên trái: nếu hói thấp mọt chút nhưng đừng trũng thì tốt. Đột khuyết : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm một trong 4 phía nhà có chỗ lõm vào hoặc lồi ra thì gọi 1à Đột khuyết. Cổ nhân mê tín cho rằng nếu phần lõm vào dài không quá 2/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Khuyết, hung (xấu); nếu lồi ra không quá 1/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Đột, cát (tốt). Song nếu Đột (lồi ra) ở hai hướng đông bắc và tây bắc thì cát biến thành hung. Ngoài ra, đột tuy là cát, Khuyết tuy là hung, nhưng còn phải xem năm sinh của chủ nhà phối với phương vị Cửu tinh, có thể cát biến thành đại cát, hung biến thành đại hung tại phương vị có đột khuyết.
70
Kiều lương : Địa hình bên ngoài nhà ở. Nói chung Thuật Phong thủy nghiêm cấm làm cầu ở 4 phía nhà ở, vì cho rằng bốn phía có cầu là bị bắn thẳng, ở nhà đó con cháu sẽ khiếp nhược, gia sản lụn bại. Hung. Câu ca nói : “Nhất kiều cao giá trạch sảnh tiền, tả hữu tương đồng hậu diệc nhiên, bất xuất tam niên tịnh ngũ tái, gia tư đãng tận mại điền viên" (Dương trạch thập thư) (trước nhà hai bên nhà mà có một chiếc cầu thì chỉ trong vòng ba năm gia sản sẽ khánh kiệt phải bán cả ruộng vườn). Nếu nhà ở bên cạnh cầu thì phải trấn yểm thường dùng bia đá dựng ngay trước cầu. Một thuyết khác nói rằng nếu quanh nhà có cầu, thì cân phân biệt cầu ở phương nào, phương suy hay phương vượng; phương suy mà có cầu thì hung, phương vượng mà có cầu thì cát. Nếu Chu tước (phía nam) có cầu, không kỵ; nếu Thanh long (phía đông) có cầu, gia đình bình an. Đối với làng xóm, thị trấn, có khi người ta sử dụng cầu ở thủy khẩu để phong toả sinh khí, ngăn chặn gió thổi, là một yếu tố quan trọng của Phong thủy nơi đó. Phong thủy âm trạch thì không coi trọng lắm sự hiện diện hay không của những cây cầu. Văn bút tháp : Kiến trục hình tháp. Vì hình dáng giống cây bút, lại cĩ quan hệ tới sự đỗ đạt, nên có tên gọi đó. Còn gọi là “Văn phong tháp". Thuật Phong thủy cho rằng, nếu một thành phố hoặc thôn trấn nào đó mà việc văn chương khoa cử yếu kém, thì tại 4 phương vị là Giáp sơn (chính đông thiên bắc), Tốn sơn (đông nam), Bính sơn (chính nam thiên đông), Đinh sơn (chính nam thiên tây ) nên chọn mảnh đất tốt mà xây Văn bút tháp. Bất kể địa thế nơi ấy thế nào, tháp đều phải cao hơn mọi công trình kiến trúc khác, thì sẽ có những người đỗ cao. Có khi người ta đắp đất đá làm hòn giả sơn, cũng được gọi là Văn bút phong, Văn bút sơn. Ngũ hư ngũ thục : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ 5 trạng thái cát hung của kết cấu bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy coi 5 điều sau là "Ngũ hư “: nhà lớn mà ít người cư trú, cổng lớn mà nhà nhỏ, tường rào không trọn vẹn, giếng và bếp bố trí sai phương vị, nhà rất lớn mà ít phòng ốc; 5 điều sau là “ngũ thực" : nhà nhỏ mà đông người, nhà lớn mà cổng cửa nhỏ, tường rào hoàn chỉnh, nhà nhỏ nhưng nhiều gia súc, nước ở phía trước và phía sau nhà chảy về phía đông nam. Ngũ hư làm cho nghèo hèn, còn Ngũ thực làm cho người ta phú quí. Thực ra đó là khuynh hướng xây dựng những ngôi nhà cỡ vừa và nhỏ, đồng thời khuyên người ta chú ý hoàn thiện kết cấu không gian bên trong nhà ở. Xuyên cung cửu tinh : Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định tình trạng cát hung của các ngăn hoặc dãy phòng, để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà ở. Tuy mang tên Cửu tinh (9 sao), nhưng thực ra chỉ sử dụng 5 sao là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, tương ứng với ngũ hành hỏa, thổ, kim, thủy, mộc, sắp xếp theo trật tự thuận cố định, không thay đổi, trong đó Lục sát, Ngũ quỉ là hung tinh, dãy hoặc ngăn phòng ốc nào có hai sao đó thì nên làm nhỏ, thấp, con ba sao Sinh khí, Thiên ất, Diên niên là cát tinh, phòng ốc nào có 3 sao ấy thì nên làm cao rộng. Phương pháp sắp xếp cụ thể phải kết hợpvới phương vị Bát trạch cửu tinh. Trước tiên, xem cửa chính của ngôi nhà mở về hướng nào, là sao nào, lấy sao ấy làm đại diện cho ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất, sau đó lần lượt 4 sao kia theo trật tự cố định, thì có thể biết ngăn nào là sao gì. Ví dụ, ngôi nhà toạ đông hướng tây, mở cửa về hướng Khôn tây nam, chính giữa phương mở của, tức phương chính tây, là sao Thiên ất; vậy Thiên ất là ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất nên làm cao, rộng. Trong trật tự cố định, Thiên ất ở vị trí thứ tư tiếp sau nó là sao Diên niên.
71
Vậy Diên niên là người thứ hai, phòng này cũng nên cao rộng. Tiếp sau Diên niên sẽ trở lại từ đầu, là sao lục sát, ngăn thứ ba, với sao này, phòng nên thấp nhỏ. Ngăn thứ tư là sao Sinh khí, phòng này nên cao to. Ngăn thứ năm là Ngũ quỉ, nên thấp nhỏ. Ngăn thứ sau lại là Thiên ất nên làm cao to. Ví dụ khác, ngôi nhà tọa tây hướng đông, mở cửa hàng Cấn. Chính giữa phương mở cửa tức đông bắc là sao Lục sát, thì lấy Lục sát làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Nếu ngôi nhà mở cửa ở phương vị Tứ chính, thì ngăn thứ nhất là Hán cung Phúc đức phòng ốc nên làm cao to hoặc vừa phải. Ngăn thứ hai là Lục sát, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Ví dụ, ngôi nhà toạ nam hướng bắc, mở cửa tại phương Khảm chính bắc, thì Khảm là Bản cung Phúc đức, lấy đó làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, là dãy thứ hai, Sinh khí là dãy thứ ba; Ngũ quỷ là dãy thứ tư; Thiên ất là dãy thứ năm, Diên niên là dãy thứ sáu. Bất kể nhà nào, nếu cửa của dãy thứ nhất mở ra phía ngoài, thì từ dãy thứ hai tính là Lục sát, mà không tính đến Cửu tinh theo phương vị tứ chính nữa. Xuyên cung Cửu tinh gặp sao Sinh khí (Tham lang, Mộc) cư ở Trung cung, còn gọi là Cát tinh đương hung, phòng ốc không nên cao to, là một trường hợp ngoại lệ. Phương vị sắp xếp Bát trạch cửu tinh hữu quan, xin xem thêm các mục Bát trạch. Tài lộ phân phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định cát hung của từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc trong một toà nhà. Căn cứ Đại du niên biến hào pháp và tam nguyên pháp có thể tính toán cung Phúc đức của chủ nhà nằm ở đâu và từng người nên ở loại nhà nào; nhưng trong cùng một toà nhà, cỏ rất nhiều nhân khẩu, già trẻ, trai gái, mệnh rất khác nhau. Cho nên Phong thủy dương trạch lại có phép Tài lộ phân phòng để giải quyết tình trạng đó. Phép này tính Cửu tinh cho từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc , theo toạ hướng và phương mở cửa của chúng. Trình tự sắp xếp Cửu tinh có thể biết nhờ phép Đại du niên biến hào pháp. Ví dụ, nhà toạ nam hướng bắc, cửa Khảm, chủ nhà là người thuộc Đông tứ trạch. Trong nhà đó ngăn thứ nhất mở cửa Khảm, thích hợp cho người thuộc Đông tứ trạch cư trú. Ngăn thứ hai được ngăn cách bằng tường vách, mở cửa Đoài (chính tây) , ắt thành nhà toạ đông hướng tây, cửa Đoài, là Tây tứ trạch, thích hợp cho người nào mạng thuộc Tây tứ trạch cư trú. Trình tự sắp xếp Cửu tinh của ngăn này giống như ở ngôi nhà toạ đông hướng tây mở cửa Đoài, ở phương vị cát tinh nên làm phòng ốc cao to, còn ở phương vị hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, người chủ nên ở phương vị cát tinh. Lại còn phải chú ý kết hợp phương vị cát hung tinh từng ngăn (hoặc dãy) trong nhà với toàn bộ toà nhà; nếu phương vị cát tinh của một ngăn trùng với cát tinh của cả tòa nhà, thì đương nhiên là đã tốt càng thêm tốt; ngược lại, nếu hung tinh của ngăn ấy cũng là hung tinh của cả toà nhà, thì đã xấu càng thêm xấu; nếu cát tinh lẫn lộn với hung tinh, thì nên làm phòng thấp nhỏ hoặc vừa phải, tùy tình hình cụ thể mà xác định. Trong một nhà, vợ chồng không nên ở hai dãy khác nhau, nếu cung Phúc đức khác nhau, thì lấy của chồng làm chính. Thuyết tài lộ phân phòng nhằm chứng minh một đại gia đình có thể đoàn tụ ở một nơi. Khai môn : Địa hình bên trong nhà ở. Xác định phương vị, ngày giờ tu sửa hoặc làm và kích thước của cổng và cửa các phòng của ngôi nhà là một nội dung quan trọng của phong thủy dương trạch. Thuật Phong thủy cho rằng người sống trong nhà bị cách biệt
72
với sinh khí, phải dựa hoàn toàn vào sự thông thoáng khí, nên Khai môn rất quan trọng. Câu Ca nói: “Ninh dữ nhân gia tạo thập phần, bất dữ nhân gia tu nhất môn" (Thà làm cho người ta mười cái mộ còn dễ hơn sửa một cái cửa) (Dương trạch thập thư). Trình tự Khai môn cụ thể như sau : trước hết, xác định phương vị Bát trạch. Thường lấy phương vị cung Phúc đức của chủ nhà hoặc phương cát tinh làm phương vị Khai môn, nếu nhầm lẫn thì rất xấu. Trước cổng không nên có Sa, Thuỷ xối thẳng vào, không nên là đường gập ghềnh nguy hiểm, không nên có cây khô, đền miếu, không nên đối diện hoàn toàn với cổng nhà khác, không nên bị đường hẻm đâm thẳng tới. Trên cổng không được xây lầu, chủ bất lợi cho chủ nhà. Cổng lớn và cửa từng dãy, từng ngăn trong nhà không được nằm trên một đường thẳng, để sinh khí khỏi bị tiết thóat đi mất. Thứ nữa, tu tạo cổng cửa phải chọn ngày lành tháng tốt, mùa xuân không được Khai môn ở Phía đông, mùa hạ ở phía nam, mùa thu ở phía tây, mùa đông ở phía bắc. Làm cổng, cửa kỵ các sao như Cửu lương, Đại hao, Tiểu hao, Khưu công sát, cộng cả thảy hơn 10 điều cấm kỵ. Lại có Môn quang pháp tính toán ngày lành hợp thì tốt, không hợp mà làm thì xấu. Thứ ba kích thước của cổng, cửa phải theo qui định, không được tùy tiện. Nội dung luận thuật của Phong thủy dương trạch về Khai môn có phần phù hợp yêu cầu bảo đảm ánh sáng và sự thoáng khí, là có giá trị. Còn qui định kích thước tỉ mỉ là mang tính chất mê tín. Khí khẩu : Địa hình trên trong nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính. Thuật Phong thuỷ cho rằng ngôi nhà tiếp nhận khí ở cổng, cửa, giống như người hít thở bằng miệng, nên gọi là khí khẩu. Yêu cầu kiến tạo ở phương vị cát tinh để đón khí tránh hung. Phúc đức môn : Địa hình bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy qui định rằng phàm là chùa chiền (của Phật giáo) tọa ở 7 phương vị là Khảm (chính bắc), Cấn (đông bắc), Chấn (chính đông), Tốn (đông nam), Ly (chính nam), Khôn ( tây nam), Đoài ( chính tây), đều có thể mở cổng cửa ở chính giữa. Duy tọa ở phương vị Càn (tây bắc) thì không được Khai môn ở Thìn, Tốn, Ty sơn, tức ở chính hướng đông nam đối diện; mà phải thiên sang ất sơn, như thế gọi là Phúc đức môn, đại cát. Thanh long môn : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hương nam mở cổng hoặc cửa ở phương vị đông nam (vị trí Tốn), gọi là Thanh long môn, cực tốt. Theo thuyết Bát trạch, toạ bắc hướng nam có 3 loại nhà, một toạ bắc hướng nam Ly môn, hai, toạ bắc hướng nam Tốn môn, ba, toạ bắc hướng nam Khôn môn. Hai loại đầu thi vị trí Tốn chính là cát tinh Thiên ất, Phúc đức; còn loại thủ ba vị trí Tốn là sao Ngũ quỉ, rất xấu. Nội lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ lối đi trong nhà. Trong nhà có một cưa thì chỉ có một lối đi. Yêu cầu lối đi trong nhà không được xuyên thăng từ cổng vào đến cuối cùng. Ngoại lộ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ các con đường bên ngoài không nên đâm thẳng vào cổng không nên vây quanh tứ phía hoặc kèm hai bên. Hỏa yên : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc. Thuật Phong thủy cho rằng khói lửa là vật không lành, cho nên nhà bếp nên bố trí ở phương vị có hung tinh trong nhà để hun khói hung thần sát khí. Nếu đặt ở phương vị cát tinh, thì sẽ làm ô uế thần phúc sinh khí,
73
cực hung. Câu ca nói : "Càn Bính Cấn ất vị hỏa yên, Khôn Đoài Quý thượng thị căn nguyên, Chấn Tốn hỏa yên Canh thượng thị, Khảm Ly Giáp thượng bất hư truyền" (Dương trạch thập thư ), nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn, Cấn trạch thì bếp ở ất sơn; Khôn trạch và Đoài trạch thì bếp ở Qúy sơn; Chấn trạch và Tốn trạch thì bếp ở Canh sơn; Khảm trạch và Ly trạch thì bếp ở Giáp sơn, đều là phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương vị cát tinh. Có thuyết nói Hoả yên là hương hỏa từ đường, hướng coi đó là Phục vị Phúc đức, đều là dị thuyết về Phong thủy dương trạch, không đáng tin. Hóa lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc, tức Hỏa yên. Câu ca nói : “Càn trạch toạ Bính Chấn toạ Canh, Đoài trạch Qúy vị Tốn trạch Tân. Khảm trạch toạ Giáp Ly tu Ất, Cấn trạch tọa ất Khôn trạch Nhâm" ( Dương trạch thập thư) nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn. Chấn trạch thì bếp ở Canh sơn; Đoài trạch thì bếp ở Quý sơn, Tốn trạch thì bếp ở Tân sơn, Khảm trạch thì bếp ở Giáp sơn; Ly trạch thì bếp ở Aát Sơn. Cấn trạch thì bếp ở Ất sơn. Khôn trạch thì bếp ở Nhâm sơn, đều là phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương vị cát tinh. Thuyết này câu ca hơi khác so với Hỏa yên. Phóng thủy : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ việc xả nước của nhà ở. Phong thủy dương trạch rất coi trọng Phóng thủy. Lôi xả nước có qui định hết sức nghiêm ngặt, theo nguyên tắc chung là dương sơn thì xả dương, âm sơn thì xả âm. Nghĩa là nước của phương vị dương sơn phải chảy ra từ dương sơn, mà nước của phương vị âm sơn thì phải chảy ra từ âm sơn. Trong 24 sơn, thì Càn, giáp, khôn, ất, tý, qúy, thân, thìn, nhâm, dần, ngọ, tuất là dương sơn, còn Cấn, bính, tốn, tân, dậu, đinh, tỵ, sửu, canh, hợi, mão, mùi là âm sơn. Cưả xả nước lại chỉ được ở phương vị Thiên can, cái gọi là “Phóng thủy chỉ tòng thiên thượng khứ" (Dương trạch thập thư ). Từ dương sơn chảy ra dương thủy, chủ phú quí tột bậc. Từ âm sơn chảy ra âm thủy, chủ có nhiều con cháu. Nêu lẫn lộn âm dương, tai họa sẽ dồn dập. Phóng thủy còn phải liên quan tới phương vị Cửu tinh. Phương vị Tham lang, Văn Khúc, Vũ khúc, thủy chảy đến thì đại cát, thủy chảy đi thì hung. Phương vị Cự môn, Phụ bật, thủy đến và đi đều cát. Phương vị Lộc tồn, Liêm trinh, Phá quân, thủy nên chảy đi, không nên chảy đến. Thủy chảy đến hoặc chảy đi trên phương vị Cửu tinh sẽ có ảnh hưởng không giống nhau tới chủ nhà. Ví dụ thủy Tham lang chảy đến thì chủ con trưởng hưng vượng, thủy Cự môn chảy tới, thì con thứ phát triển; thủy Lộc tồn chảy đến, chủ trong nhà sẽ có quả phụ; thủy Văn khúc chảy đến, chủ con thứ bị suy kém. Phóng thủy ngoài việc phải theo qui định về phương vị chảy đến và chảy đi, còn có những điều nên hoặc không nên, chẳng hạn kỵ chảy thẳng, xuyên ngang, phân nhánh hình chữ Bát; kỵ chảy ngầm bên dưới phòng ốc, tối kỵ chảy xuyên qua cổng. Nên chảy vòng, men bên cạnh. Tốt nhất là uốn lượn ngoằn ngoèo mà chảy đi. Phóng thủy (xả nước, thoát nước) là yếu tố tất nhiên phải suy tính khi xây dựng nhà ở. Thuật Phong thủy đề ra hàng loạt yêu cầu hoàn chỉnh về mặt này, có nhiều điều đáng tiếp nhận, chẳng hạn cống thoát nước không nên chảy xuyên qua sân, không nên chảy qua dưới lòng nhà, không để trong nhà qua mức ẩm thấp, nhưng về mặt phương vị cát hung thì mang màu sắc mê tín. Thủy phá Thiên tâm: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy xuyên thẳng hoặc tràn ngang qua nhà, hung. Nếu xuyên thẳng qua nhà còn gọi là
74
“Bão thương sát". Bão thương sát : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy xuyên thẳng qua giữa nhà; còn gọi là “Thủy phá Thiên tâm", hung. Xả nước xéo qua nhà cũng gọi là Bão thương sát. Hung. Khốn tự : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm làm nhà mà xây tường rào vày xung quanh trước, sau đó mới xây phòng ốc, gọi là “khốn tự", vì giống hình chữ "Khốn". Chủ nhà này sẽ không thể phát đạt, hưng vượng nổi. Đình táng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà đã làm xong, lại làm thêm một phòng ốc nhỏ ở phía sau, gọi là Đình táng, không tốt. Ai sống trong căn phòng làm thêm ấ thì đại hung. Long đốn trạch : Địa hình bên trong nhà ở. Sau phòng ở làm nhà kho, gọi là Long đốn trạch. Vì phía sau nhà là Lai long, nên có tên như vậy. Xuyên tâm sát : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm lối đi bên trong hoặc đường đi bên ngoài đâm thẳng vào cổng nhà thì gọi là Xuyên tâm sát. Qui đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà tọa bắc hướng nam mà làm thêm phòng ốc ở phía trước, gọi là Qui đầu, vì giống con rùa thò đầu ra. Được giải thích là nhà đó sẽ bị hao tài tốn của. Thanh long đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ nhà ở có phòng ốc phía bắc, phía đông, mà không có phòng phía tây, gọi là Thanh long đầu; ngược lại thì gọi là Bạch hổ đầu. Bạch hổ đầu Câu ca nói : “Thử ốc danh vi Thanh long đầu, tất chủ trưởng phòng y thực sầu. Tại gia cô quả chủ trưởng bại, xuất khứ bất hồi không ỷ lâu” (nhà kiểu Thanh long đầu thì con trưởng suy bại, nghèo khổ). "Thử ốc danh vi Bạch hổ đầu, tất chủ tiểu phòng y thực sầu. Ấu nam cô quả tất tổn bại, tiện kiến nguyên nhân tại lí đầu” (nhà kiểu Bạch hổ đầu thì con thứ suy bại, nghèo khổ) ( Dương trạch thập thư ). Thanh long phệ đầu tháp vĩ : Địa hình bên trong nhà ở. Căn phòng phía đông mà đầu nam nối với một phòng nhỏ, gọi là ."Thanh long phệ đầu”, đầu bắc nối với một phòng nhỏ, gọi là "Thanh long tháp vĩ". Câu ca nói: "Thanh long tháp vĩ cộng phệ đầu, nhất niên lục độ trưởng tử sầu, tiền tài phá tán nhân tật bệnh, thời thời ương quái chí môn đầu” (ở nhà kiểu Thanh long co đầu rụt đuôi thì con trưởng trong một năm sáu lần gặp chuyện buồn, như hao tài tốn của, bệnh tật, tai ương dồn dập) (Dương trạch thập thu ). Ngoài ra, nếu trong nhà mà phòng phía bắc, phòng phía tây, phòng phía nam nối với một phòng nhỏ, thì gọi là Huyền vũ phệ đầu tháp vĩ, Bạch hồ phệ đầu tháp vĩ, Chu tước phệ đầu tháp vĩ, đều là những kiểu không lành, cần giỡ bỏ hoặc trấn yểm. Đằng xà cử đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Tại gốc đông bắc của nhà ở xây thêm một phòng nhỏ, gọi là Đằng xà cử đầu. Câu ca nói : " Đằng xà cử kỳ đầu, cư gia đa hữu ưu,
75
lục súc gia tài tan, tật bệnh sự bất hưu” (Ở nhà kiểu Đằng xà ngóc đầu thì gặp nhiều chuyện lo buồn như hao tài tốn của, bệnh tật liên miên, gia súc chết) (Dương trạch thập thư). Tả hữu tích xạ : Địa hình bên trong nhà ở. Góc nhọn của nóc phòng chính chĩa thẳng sang phòng phía đông và phòng phía tây ở hai bên phải trái thì gọi là Tả hữu tích xạ. Câu ca nói : “Oác tích xạ tả phòng, trưởng tử mệnh tiêu vong. Oác tích xạ hữu phòng, ấu tử chủ li hương, nhược hoàn tề lai xạ, xạ đắc lãng đãng quang" (Phòng phía đông chủ con trưởng, phòng phía tây chủ con út. Góc nhọn nóc nhà chĩa sang phòng bên trái thì con trưởng chết trước, chĩa sang phòng bên phải thì con út phải rời bỏ quê hương) (Dương trạch thậpï thư) Trùng âm phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà chỉ có phòng phía nam hoặc phòng phía tây mà không có phòng phía bắc, phía đông, thì gọi là Trùng âm phòng. Câu ca nói : " âm thịnh dương suy tối bất cường, nữ nhân hưng vượng nhi bất trưởng. Đạo tặc quan sự đô vô số, tuyệt liễu hậu đại thiểu nhi lang" (Âm thịnh dương suy thì nữ mạnh, nam yếu, ở nhà này sẽ gặp kiện tụng, trộm cướp và không có con trai nối dõi) (Dương trạch thập thư) Cô dương phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà chỉ có phòng phía bắc gọi là Cô dương phòng. Câu ca nói : “Chỉ hữu nhất bắc phòng, nam vượng nữ tao ương, tiền tài chủ phá tán, niên niên hữu bất tường" ( Nhà chỉ có phòng phía bắc, thì nam vượng, nữ gặp tai ương, hao tài tốn của, năm nào cũng có tai họa) (Dương trạch thập thư). Giang thi phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Bất kể phòng nào, phàm ở giữa cao lớn mà hai bên phòng xép thấp nhỏ, thì gọi là Giang thi phòng ( Phòng gánh xác chết). Câu ca nói : “Xung thiên lạc địa lưỡng đầu đê, tam niên lưỡng độ tổn nam nữ. Hựu chủ giang thi tịnh ngoại tử, thái tuế đương môn vô cải di" ( Nhà kiểu Gánh xác chết thì ba năm gặp hai cái tang, một nam một nữ) (Dương trạch thập thư) Đơn nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ơû đầu phía đông của căn phòng phía bắc làm thêm một phòng xép thì gọi là Đơn nhĩ phòng. Câu ca nói : “Đường ốc đông đầu tiếp tiểu phòng, trạch trung tiểu khẩu tu tao ương, tam niên lưỡng độ ứng nan miễn, nhân khẩu lục súc hữu tổn thương" ( Nhà kiểu Đơn nhĩ phòng thì dễ bị tai họa, ba năm hai lần bị tổn hại về người và gia súc) (Dương trạch thập thư). Song nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở cả hai đầu của căn phòng phía bắc đều làm thêm phòng xép, thì gọi là Song nhĩ phòng. Câu ca nói : "Bắc phòng lưỡng đầu đô hữu phòng, trạch trung lão thiếu thường bệnh ương, ám phong huyết khí tịnh hoàng thũng, hạch thấu sinh phong chủ ôn hoàng" (Ở nhà kiểu Song nhi phòng thì già trẻ đều dễ bị các loại bệnh như ho lao, phù thũng...) (Dương trạch thập thư). Tiểu tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Đằng trước nhà lại xây một phòng chính chắn ngang, gọi là Tiểu tự phòng. Câu ca nói : " Mạc cái Tiểu tự phòng, dương nhân hữu tai ương. Nhân khẩu đa hữu bệnh, nhất niên lưỡng độ vong" (chớ nên làm nhà kiểu chữ Tiểu mà nam giới bị bệnh, một năm có hai người chết) (Dương trạch thập thư).
76
Thủy tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở hai bên phòng chính lại có phòng, gọi là Thúy tự phòng. Câu ca nói : “Mạc cái Thủy tự phòng, âm nhân hữu tai thương, đa phục cổ độc tử, nhất niên lưỡng độ vong ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Thủy mà nữ giơi bị bệnh cổ trướng, một năm có hai người chết ) ( Dương trạch thập thư). Vương tụ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Từ phòng chính nhô ra hai bên đông tây hai phòng như hình chữ Vương, gọi là Vương tự phòng. Câu ca nói : "Mạc cái Vương tự phòng, gia trương tất tai ương, thũng khí tịnh cước tật, âm nhân tất tổn thương” ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Vương mà gia trưởng bị tai ương, bệnh phù thũng, phù chân, nữ giới bị tổn thương) ( Dương trạch thập thư). Lộ cốt phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Khi làm nhà để lộ ra các đầu keo bằng gỗ ở mái hiên, gọi là Lộ cốt phòng. Câu ca nói : “Nhưọc cái Lộ cột phòng, lão gia bệnh trước sàng, sổ niên tần tần khổ, bất miễn mại điền trang" (chớ nên làm nhà kiểu lộ xương mà người già sẽ ốm liệt giường mấy năm, phải bán sạch ruộng vườn ) (Dương trạch thập thư). Trạch thần : Thần cai quản nhà ở. Có thuyết lấy thần thổ địa làm Trạch thần, có thuyết lấy ông Táo làm Trạch thần. Chủng thụ thuyết : Qui định của Thuật Phong thủy về việc trồng cây. Nhin chung có thể chia ra hai loại, khung cảnh lớn và khung cảnh nhỏ. Trong khung cảnh lớn, để bảo vệ cây cối là chính, Thuật Phong thủy cho rằng cây co là da và lông của Long, mà lai long là mạch máu sở tại của nhà ở và mộ phần, chặt cây ắt Long bị tổn thương. Hơn nữa, cây mọc ở phương vị tốt, chặt cây tức là trừ bỏ điều lành ; cây mọc ở phương vị hung, chặt cây tức là kích động sự hung hãn. Do đó nghiêm cấm chặt cây. Có khi chủ trương trồng cây một cách có chủ đích, ví dụ nếu hậu sơn Lai long và Sa hai bên tả hữu thưa thớt cây cỏ, thì có thể dùng sức người trồng cây cho khói thưa thớt. Bờ thủy khẩu và trên núi cũng có thể trồng cây để bảo đảm tính kín đáo của thủy khẩu. Trong khung cảnh nhỏ, chủ yếu trong phạm vi nhà ở, thì có nhiều thuyết phức tạp, trồng cây ở vị trí nào phải theo qui định rất nghiêm ngặt. Chẳng hạn, ở phía đông trồng cây hạnh, chủ nhà sẽ say mê tửu sắc, toàn gia ly tán, hung. Tại phía bắc có cây mận, phía tây có cây đào, thì người nhà ấy dâm tà, hung. Bốn phía quanh nhà đều có hoa hồng, thì chủ nhà nát rượu, hung. Còn trồng đào, liễu ở phía đông, cây du, cây quất ở phía tây, cây mai cây táo ở phía nam, cây hạnh cây thị ở phía bắc, thì cát. Trước cửa giữa trồng hoè, ba đời phú quí; sau nhà có cây du, ma quỉ chẳng dám bén mảng. Tùng, trúc cũng là những thứ cây lành. Câu ca nói : “Thanh tùng úc úc trúc y y, khí sắc quang dung hảo trú cơ" ( tùng xanh trúc vàng từng khóm làm đẹp cảnh sắc nhà cửa) ( Dương trạch thập thư). Nếu địa hình làm nhà trái qui tắc, dẫn tới hung họa, cũng có thể trồng cây để biến hung thành cát. Thuật Phong thủy rất coi trọng cây cối ở trước cổng. Qui định rằng trước cổng không được cò cây lớn, không được có một cây độc nhất, không được có cây rỗng ruột, không được có cây cành sứt sẹo, không được trồng bụi mây song ... Thuyết trồng cây trong Thuật Phong thủy tuy có yếu tố mê tín, song cũng có tính khoa học của nó.
77
Biện thổ pháp : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định làm nhà, ta đào một cái hố vuông, mỗi chiều 1 thước 2 tấc, độ sâu cũng vậy. Đất đào lên đem đập vụn, sàng qua, rồi đổ xuống hố, lấp đầy thì thôi, không được nén. Sáng sớm hôm sau ra đó quan sát, nếu thấy đất trong hố lồi lên, chứng tỏ sinh khí dồi dào, làm nhà rất tốt; nếu thấy hố lõm xuống, chứng tỏ sinh khí suy kiệt, làm nhà ắt là hung. Biện thổ pháp giống như Xứng thổ pháp, là phương pháp khảo sát xác định chất đất thời cổ cua Trung Quốc. Xứng thổ pháp : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định làm nhà, ta lấy một cục đất vuông, mỗi chiều 1 tấc. Đem cân lên, nếu nặng 9 lạng là đất tốt, nặng 5 - 7 lạng là đất tốt vừa, nên làm nhà; còn chỉ nặng 4 lạng trở xuống là đất dữ, không nên làm nhà. Hoặc đào đất, đập nát, dùng đấu mà đong rồi cân. Nếu mỗi đấu cân nặng 10 cân là rất tốt, nặng 8 - 9 cân là tốt vừa, nặng 7 cân cũng tốt. Phương pháp này là sự tổng kết kinh nghiệm lâu đời mà có, xác định độ bền của nền đất xây dựng khá chính xác. Thổ sắc : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Người ta quan sát màu sắc của đất nơi đào mộ hoặc làm nhà, chia ra 5 loại màu : đỏ, vàng, trắng, xanh, đen. Ba màu đỏ, vàng, trắng là tốt nhất, màu xanh kém hơn, xấu nhất là màu đen. Tục khí : Tức là tiếp tục sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng nhà ở sau một thời gian sẽ hết sinh khí, cần được tiếp tục bồi bổ sinh khí. Cũng có phân biệt Bát trạch mà qui định thời hạn khác nhau. Ví dụ, Càn trạch sau 40 năm hết sinh khí , Khôn trạch sau 50 năm... Khi đó phải Tục khí (hoặc Hoán khí, nghĩa là dùng gạch mới, đất mới tu tạo nhà ở). CHỌN LỰA VÀ TRẤN YỂM Mệnh chủ : Chủ nhân của ngôi nhà. Cổ nhân cho rằng nam sinh của mỗi người khác nhau, nên cung mệnh sở thuộc cũng khác nhau. Phong thủy dương trạch yêu cầu căn cứ cung mệnh của chủ nhà mà tính toán thuộc tính của ngôi nhà để xác định phương vị lành dữ và ngày khởi công, nên gọi là Mệnh chủ. Mệnh chủ có phân biệt nam nữ. Đông tứ mệnh : Thuật Phong thuỷ cho rằng, phàm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Chấn, Tốn, Khảm, Ly, thì là người sinh Đông tứ vị, thuộc Đông tứ mệnh. Theo lý luận Phong thủy dương trạch, người sinh Đông tứ mệnh chỉ có thể ở tại Đông tứ trạch, ví dụ đối với người Khảm mệnh trong Đông tứ trạch, Phúc đức tại Kham, thì nhà toạ bắc hướng nam là cực tốt, nhà toạ nam hướng bắc là rất tốt, nhà toạ tây hướng đông cũng tốt, còn toạ đông hướng tây thì hung. Cũng có thể áp dụng phương pháp Tài lộ phân phòng. Phòng ngủ ở phòng phía nam dãy đông là cực tốt, ở phòng phía đông dãy nam là rất tốt, ở phòng phía bắc dãy giữa cũng tốt. Cổng nếu mở ở phương đông nam Tốn sơn, tỵ sơn, thìn sơn, là cực tốt; tại phương chính bắc Khảm sơn sẽ là cổng Phúc đức, rất tốt; tại phương chính nam Ly sơn cũng tốt. Giếng nước nếu ở phương vị đông nam thìn sơn, ty sơn thì đại cát. Bếp nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn. Cối giã gạo nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn và phương chính tây Đoài sơn. Chuồng gia súc nếu
78
bố trí ở phương đông nam thì đại cát. Phong thủy (thoát nước) nên bố trí tại Giáp sơn, ất sơn. Mệnh Chấn, mệnh Ly, mệnh Tốn qui định còn phức tạp hơn. Thực ra đều có qui luật phải theo, đó là căn cứ trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phương vị cát tinh thì bố trí tọa hướng, mở cổng của, làm phòng ngủ, giếng nước, chuông gia súc, còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo. Tây tứ mệnh : Thuật Phong thủy cho rằng, phạm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Càn, Khôn, Cấn, Đoài, thì là người sinh Tây tứ vị, thuộc Tây tứ mệnh. Theo lý luận Phong thuỷ dương trạch , người sinh thuộc Tây tứ mệnh chỉ có thể ở tại Tây tứ trạch, ví dụ Càn mệnh lấy cung Càn làm cung Phúc đức, thì ở ngôi nhà toạ bắc hướng nam Khôn môn, hoặc ngôi nhà toạ nam hướng bắc Càn môn là rất tốt, ở ngôi nhà toạ đông hướng tây Càn môn, Khôn môn, Đoài môn cũng tốt, nhà toạ nam hướng bắc phong Cấn Sửu sơn. toạ tây hướng đông phương Cấn Dần sơn cũng tốt. Cổng nhà nên mở ở phương Tây bắc Càn sơn, Hợi sơn, Tuất sơn; ở phương tây nam Khôn sơn, Mùi sơn, Thân sơn, thì rất tốt. Cổng ở phương chính tây Tân sơn, đông bắc Dần sơn, Sửu sơn, cũng tốt. Nhưng không được ở chính cấn sơn vì đó là Qui môn. Phòng ngủ thì lấy lầu trên phòng phía tây là tốt nhất; cũng có thể ở phòng phía bắc dãy tây, dãy đông, phòng phía nam dãy tây. Giếng nước, chuồng gia súc mà đặt ở phương chính tây thì đại cát. Bếp ở phương nam Bính sơn, cối giã gạo ở phương chính đông, đông nam là đại cát Phóng thủy (thoát nước) ở phương đông Giáp sơn, Ất Sơn, phương bắc Nhâm sơn, Qúy sơn là đại cát. Khôn mệnh, Cấn mệnh, Đoài mệnh cũng theo nguyên tắc tương tự đó là căn cử trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phương vị cát tinh thì bố trí toạ hướng, mở cổng cửa, làm phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo. Phúc đức : Còn gọi là cung Phúc đức. Chỉ nơi ký gửi năm mệnh của chu nhà, phương vị của nó dùng Bát quái thay thế. Ví dụ, nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào đó là Càn, ắt người đó thuộc Tây tứ vị, nên ở Tây tứ trạch, mở cổng ở vị trí Càn (tây bắc). nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào đó là Chấn, ắt người đó thuộc Đông tứ vị, nên ở Đông tứ trạch, mở cổng ở vị trí Chấn ( chính đông). Muốn biết cung Phúc đức ở quẻ nào, có thể dùng Tam nguyên pháp mà tính. Biết nó ở quẻ nào rồi, thì dùng Đại du niên biến hào pháp sẽ tính ra tình trạng lành dữ của 8 phương vị (Tứ chính và Tứ ngung). Du niên biến trạch pháp : phương pháp tính lành dữ năm làm nhà căn cứ tuổi của chủ nhà. Cần phối hợp với Tam nguyên pháp, Cửu cung kiến trạch pháp, Đại du niên biến hào pháp. Cách tính như sau. Nam nữ đều khởi tính từ Đoài là 10 tuổi, nam thì thuận chiều kim đồng hồ, bỏ cách 1 cung, đến Khám là 20 tuổi, đến Chấn là 30 tuổi, đến Ly là 40 tuổi, trở lại Đoài là 50 tuổi, tiếp đến Khảm là 60 tuổi Nữ thì theo chiều nghịch, cũng bỏ cách 1 cung, tới Ly là 20 tuổi, đến Chấn là 30 tuổi, đến Khảm là 40 tuổi, trở lại Đoài là 50 tuổi, tiếp đến Ly là 60 tuổi. Những năm không đủ 10 thì cứ mỗi năm tính 1 cung nam thuận nữ nghịch như thế, đến năm tuổi của mình thì dừng. Sau đó xem Tam nguyên pháp để biết cung Phúc đức của người ấy ký gửi ở quẻ nào; rồi căn cứ Cửu cung kiến trạch pháp để cung Định Sinh; tiếp đến theo Đại du niên biến hào pháp để biết trình tự sắp xếp Cửu tinh phúc đức. Cung Định Sinh mà hung thì năm đó người ấy không nên làm nhà; cung Định Sinh mà cát thì năm đó người ấy nên tu tạo nhà ở. Ví dụ, chủ nhà là nam, sinh năm Mậu tuất, thượng nguyên. Đến năm ất Sửu 52 tuổi (tuổi mụ), thì khởi từ Đoài 10
79
tuổi theo chiều thuận đến Khảm 20 tuổi, đến Chấn 30 tuổi, đến Ly 40 tuổi, trở lại Đoài 50 tuổi, đến Càn 51 tuổi, đến Khảm 52 tuổi. Vậy Du niên của người ấy là ở Khảm. Theo Tam nguyên pháp, tính được người nam sinh năm Mậu Tuất có cung Phúc đức nằm ở quẻ Chấn. Theo Cửu cung kiên trạch pháp, định cung Sinh của người này là Đoài. rồi theo Đại du niên biến hào pháp tính ra các phương vị sắp xếp Cửu tinh cho Đoài trạch như sau : Phúc đức ( Đoài), Sinh khí (Càn), Hoạ hại ( Khảm), Diên niên (Cấn), Tuyệt mệnh (Chấn), Lục sát ( Tốn ), Ngũ quỷ (Ly) , Thiên ất ( Khôn ). Đã biết Du niên của người ấy ở khảm, vị trí đó la Hoạ hại, thì năm Kỷ Sửu không nên tu sửa hoặc làm nhà, kẻo mà đại hung. Ví dụ khác, một người là nữ, sinh năm Bính Ngọ, trung nguyên, vào năm Đinh Hợi 42 tuổi ( tuổi mụ ), khởi từ Đoài là 10 tuổi theo chiều nghịch, đến Ly 20 tuổi, đến Chấn 30 tuổi đến Khảm 40 tuổi. đến Càn 41 tuổi, đến Đoài 42 tuổi. Theo Tam nguyên pháp, nữ sinh năm Bính Ngọ, trung nguyên, thì cung Phúc đức nằm ở quẻ Cấn. Theo Cửu cung kiến trạch pháp, định cung Sinh của người này là Chấn; rồi theo Đại du niên biến hào pháp tính ra các phương vị sắp xếp Cửu tinh cho Chấn trạch như sau : Phúc đức ( Chấn), Diên niên (Tốn), Sinh khí (Ly), Hoạ hại ( Khôn ), Tuyệt mệnh ( Đoài ), Ngũ quỉ ( Càn ), Thiên ất ( Khảm ), Lục sát ( Cấn ). Đã biết Du niên của người ấy ở Đoài, vị trí đó là Tuyệt mệnh, thì năm Đinh Hợi 42 tuổi tuyệt đối không được làm nhà, đại hung. Theo Du niên biến trạch pháp, sẽ biến được tình trạng cát hung Cửu tinh diên niên của chủ nhà như sau. Biến được Thiên ất, chỉ trong một năm nhà ấy có người đỗ cao; biến được Sinh khí, chủ nhân khâu và gia súc tăng nhiều, phú quí liên tục; biến được Diên niên, chủ trong vòng 180 ngày có tin vui, hỉ sự; biến được Phúc đức (Phục vị), chủ người nhà đi xa trở về đoàn tụ. Đó là 4 cát tinh, gặp chúng thì nên khởi công tu tạo nhà ở. Câu ca nói : "Sinh khí Diên niên kiêm Phục vị, Thiên ất tứ lộ hảo hưng công" ( Dương trạch thực thư). Biến được Lục sát, chủ người nhà bị chết trong vòng một năm có tai họa lớn; biến được Ngũ quỉ, thì trong vòng 200 ngày sẽ có tang; biến được Tuyệt mệnh, chủ hai năm sau, con trai giữa sẽ bị chết; biến được Hoạ hại, hao tài tốn của. Đó là 4 hung tinh, gặp chúng thì không nên động thổ làm nhàa Cứu cung biến trạch pháp : phương pháp tính cung Định sinh căn cứ vào nơi ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Cần kết hợp với Tam nguyên pháp. Trình tự cụ thể như sau. Theo Tam nguyên pháp mà tính ra xem cung phúc đức của chủ nhà nằm ở quẻ nào; tiếp đó theo hình bàn tay Dã mã khiêu động đồ mà khởi tính số 1 từ cung ấy, bấ kể nam nữ, theo chiều nghịch lùi lại 5 cung, tức là cung Định Sinh. Ví dụ, chủ nhà là nam, sinh năm Canh Tý, thượng nguyên. Theo Tam nguyên pháp, tính ra cung Phúc đức (bản cung) nằm ở Khảm, lùi ngược lại là Ly, lùi tiếp 5 cung đến 5 trung là vị trí Ngọ, nam giới thì 5 cung ky gửi tại Khôn, ta biết cung Định Sinh của anh ta là Khôn. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Giáp Tuất, hạ nguyên. Dùng Tam nguyên pháp tính ra Bản cung nằm tại Ly, lùi lại sau Ly là Cấn, từ Cấn lùi trên ngón tay 5 cung là Tốn, ắt ta biết cung Định Sinh của người này là Tốn. Sau khi biết cung Định Sinh, có thể dùng phương vị Bát trạch cửu tinh cùng Du niên biến trạch pháp mà tính được Du niên sở tại, tử đó sẽ biết cát hung của việc khởi công tu tạo nhà ở. Hành niên hiên trạch pháp : Phương pháp mê tín lấy hành niên của chủ nhà để tính cát hung cho việc làm nhà. Đem 12 thần phối với 12 địa chi, qui định rằng năm Tý là Thần
80
hậu, năm Dần là Công tào, năm Ngọ là Thắng Quang, năm Thân là Truyền Tống; 4 năm đó gọi chung là năm Đại thông, tu tạo nhà ở sẽ đại lợi. Năm Hợi là Đăng Minh, năm Sửu là Đại Cát, năm Mùi là Tiểu Cát Ba năm này gọi chung là năm Tiểu thông, nên tu tạo nhà ở. Năm Mão là Thái Xung, năm Dậu là Tòng Khôi, năm Ty là Thái ất; ba năm này là năm tiểu hung, không nên tu tạo nhà ở. Năm Thìn là Thiên Canh, năm Tuất là Hà Khôi, hai năm này đại hung, làm nhà sẽ gặp tai hoạ. Câu ca nói : " Tý Ngọ Dần Thân vi Đại thông, Tiểu thông Sửu Hợi Mùi Đăng Minh, Thái ất Mão Dậu bất kham tạo, Thìn Tuất Thiên Canh vị đại hung (Dương trạch thập thu ). Đã biết cát hung 12 năm, sẽ phân ra nam nữ để tính hành niên của chủ nhân để định lành dữ. Đầu tiên giở xem bảng Lục thập Giáp tý. Từ năm Giáp tý trở xuống 10 năm là tuần giáp tý, từ năm Giáp tuất trỏ xuống 10 năm là tuần Giáp tuất, tương tự là tuần giáp thân, tuân Giáp ngọ, tuần Giáp thìn, tuần Giáp dần. Mệnh nam, người sinh vào tuần Giáp tý, 1 tuổi khởi tính từ Bính dần, 11 tuổi là Bính tý, 21 tuổi là Bính tuất, 31 tuổi là Bính thân, 41 tuổi là Bính ngọ, 51 tuổi là Bính thìn, 61 tuổi là bính dần. Người sinh vào tuần giáp tuất 1 tuổi khởi bính tý, 11 tuổi là Bính tuất. Người sinh vào tuần Giáp thân 1 tuổi khởi Bính tuất, 11 tuổi là Bính thân. Người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ. Người sinh vào tuần giáp thìn, 1 tuổi khởi Bính ngọ, 1 1 tuổi là Bính thìn. Người sinh vào tuần Giáp dần, 1 tuổi khởi Bính thìn, 11 tuổi là Bính dần. Mệnh nữ thì người sinh vào tuần Giáp ty, 1 tuổi khởi Nhâm thân, 11 tuppri là Nhâm tuất 21 tuổi là Nhâm tý, 31 tuổi là Nhâm dần, 41 tuổi là Nhâm thìn, 4l tuổi là Nhâm ngọ, 5l tuổi là Nhâm thân. Người sinh vào tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý; người sinh vào tuần Giáp thân, 1 tuổi khỏi Nhâm tý, 11 tuổi là Nhâm dần; người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Nhâm dần, 11 tuổi là Nhâm thìn; người sinh vào tuần Giáp thìn 1 tuổi khỏi Nhâm thìn, 11 tuổi là Nhâm ngọ; người sinh vào tuần Giáp dần 1 tuổi khởi Nhâm ngọ, 1 1 tuổi là Nhâm thân. Khi tính toán, cần chú ý đối vơi nam , theo chiều ngang tính nghịch, theo cột dọc tính thuận, còn đối với nữ, theo chiều ngang tính thuận, theo cột dọc tính nghịch. Tức la nam tính từ phải sang trái theo chiều ngang hết hàng ngang thì chuyển xuống dưới 1 hàng; nữ thì tính từ trái sang phải theo chiều ngang, đến cuối thì chuyển lên 1 hàng. Vi dụ, chủ nha là nam, sinh năm Tân Sửu, đến nam Mậu Tuất là 58 tuổi ( tuổi mụ). Tân Sửu thuộc tuần Giáp Ngọ, 1 tuổi khởi tính từ Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ, 21 tuổi là Bính thân, 3l tuổi là Bính dần, 41 tuổi là Bính tý, 51 tuổi là Bính tuất, theo chiều ngang lùi lại là ất Dậu 52 tuổi, Giáp thân 53 tuổi, theo cột dọc tính thuận, chuyển xuống 1 hàng là Qúy mão 54 tuổi, Nhâm dần 55 tuổi, tân sửu 56 tuổi, Canh tý 57 tuổi đến Kỷ hợi 58 tuổi. Thuận với hành niên của chủ nhà tài lợi, Hợi là Đăng Minh, là năm Tiểu thông, có thể làm nhà, vậy thì biết rằng năm ông này 58 tuổi mà làm nhà thì tốt. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Đinh sửu, đến năm Tân dậu là 45 tuổi (tuổi mụ). Đinh sửu thuộc tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý , 21 tuổi là Nhâm dần, 31 tuổi là Nhâm thìn, 41 tuổi là Nhâm ngọ, chiều ngang tính thuận đến Qúy mùi 42 tuổi, cột dọc tinh nghịch, chuyển lên 1 hàng là Giáp tý, 43 tuổi, tiếp đến ất sửu 44 tuổi, Bính dần 45 tuổi, thuận với hành niên của bà này tại Dần, Dần là Công Tào, là năm Đại thông, làm nhà thì đại lợi. Vậy ta biết bà này mà làm nhà vào năm 45 tuổi thì rất tốt. Mệnh tiền ngũ thần pháp : phương pháp tính năm làm nhà cát hung căn cứ năm sinh của chủ nhà và Thái tuế sở tại Ngũ thần tức là đem 10 thiên can chia ra 5 nhóm, mỗi nhóm 1 thần, cộng là 5 thần, cát hung khác nhau. Giáp, ất là Thanh Long; Bính, Đinh là Minh Hỷ; Mậu, Kỷ là Thương Khố; ba thần ấy là thần hành. Thương khố chủ lúa thóc đầy kho.
81
Minh hỷ chủ hỉ sự dồn dập. Thanh long chủ đại phú đại quí, đều nên tu tạo nhà ở. Nhâm, Qúy là Đạo tặc, chủ chuốc họa trộm cướp, hao tài tốn của. Canh, Tân là Bạch hổ, chủ tai họa, tang tóc; đó là 2 hung thần, xung phạm thì đại hung, không nên tu tạo nhà cửa. Đem 5 thần trên phối với năm sinh của chủ nhà, tức là Mệnh tiền ngũ thần. Người sinh năm Tý ngũ thần ở Tỵ. Người sinh năm Sửu ngũ thần ở Ngọ. Người sinh năm Dần ngũ thần ở Mùi. Người sinh năm Mão ngũ thần ở Thân. Người sinh năm Thìn ngũ thần ở Dậu. Người sinh năm Tỵ ngũ thần ở Tuất. Người sinh năm Ngọ ngũ thần ở Hợi. Người sinh năm Mùi ngũ thần ở Tý. Người sinh năm Thân ngũ thần ở Sửu. Người sinh năm Dậu ngũ thần ở Dần. Người sinh năm Tuất ngũ thần ở Mão. Người sinh năm Hợi ngũ thần ở Thìn. Khi tính cụ thể thì phối hợp với Thái tuế sở tại và phép “Ngũ hổ độn". Thái tuế sở tại : năm Giáp tý tại Tý, năm ất sửu tại Sửu, năm Bính dần tại Dần, các năm khác cứ thế mà suy. Khẩu quyết “Ngũ hổ độn" là : Giáp, Kỷ chi niên Bính tác thủ, ất Canh chi tuế Mậu vi đầu, Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng, Đinh Nhâm chi vị thuận hành lưu, Mậu Quý chi tuế hà phương khởi, Giáp dần chi thang hảo suy cầu” (Dương trạch thập thư). Nghĩa là năm Giáp, năm Kỷ thì khởi tính từ Bính dần; năm ất, Canh khỏi từ Mậu dần, năm Bính, tân khởi từ Canh dần; năm Đinh, Nhâm khởi từ Nhâm dần; năm Mậu Qúy khởi từ Giáp dần. Lại tham chiếu bảng Lục thập Giáp tý để biết Mệnh tiền ngũ thần sở tại của chủ nhà. Ví dụ, một người sinh năm Ngọ muốn biết năm Mậu Tuất tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là Mậu Tuất. Theo Ngũ hổ độn, năm Mậu, Qúy khởi Giáp dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hướng sang bên phải thuận đến Qúy hợi. Người sinh năm Ngọ, ngũ thần tại Hợi, cho nên phải đếm từ Giáp dần trở đi, tới năm Hợi thì dừng. Qúy là Đạo Tặc, vậy Mệnh tiền ngũ thần năm mậu Tuất của ông tuổi Ngọ nói trên là Đạo Tặc, không nên tu tạo nhà cửa. Ví dụ khác, người sinh năm Tuất muốn biết năm ất sửu tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là ất Sửu. Theo Ngũ hổ độn, năm ất, Canh khởi Mậu dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hướng sang bên phải thuận đến năm Mão. Người sinh năm Tuất thì ngũ thần ở Mão. Mậu, Kỷ là Thương Khố, chủ tiền của đầy kho, vậy người ấy làm nhà vào năm ất Sửu thì đại lợi. Định tinh : Tức sao Doanh Thất, còn gọi là sao Doanh, một trong Nhị thập bát tú (28 sao). Phong tục thời xưa lấy phương vị sao Định sở tại để khởi công động thổ cho rằng đó là lành. Phương vị sao Định trong 12 tháng không giống nhau, tháng Giêng nhìn thấy nó ở Thìn, tháng hai nhìn thấy nó ở Mão, tháng ba nhìn thấy nó ở Dần, tháng tư nhìn thấy nó ở Sửu, tháng năm nhìn thấy nó ở Tý, tháng sáu nhìn thấy nó ở Hợi, tháng bảy nhìn thấy nó ở Tuất, tháng tám nhìn thấy nó ở Dậu, tháng chín nhìn thấy nó ở Thân, tháng mười nhìn thấy nó ở Mùi, tháng 11 nhìn thấy nó ở Ngọ, tháng Chạp nhìn thấy nó ở Tỵ. Phương vị sở tại của sao Định cùng phương vị hai sơn tả hữu là có lợi cho việc khởi công động thổ. Ví dụ, tháng Giêng thấy sao Định ở Thìn, thì tại 3 phương vị Tốn sơn, Thìn sơn, ất sơn đều có thể động thổ; tháng hai thấy nó ở Mão, thì tại ba phương vị ất sơn, Mão sơn, Giáp sơn đều có thể đọng thổ. Tiếp theo các tháng khác cứ theo đó mà suy. Thần sát xuất du nhật : Chỉ các ngày mà Thái tuế cùng các Thần sát khác rời vị trí sở tại đi tuần du 5 phương. Trừ phương vị mà các thần Sát đến tuần du, các phương còn lại đều có thể khởi công động thổ. Ví dụ nếu các thần đi tuần ở trung ương, thì bốn phương còn lại không hề bị cấm kỵ. Các thần đi tuần lấy Thái tuế làm đầu, trong 5 ngày giáp tý, ất sửu, bính dần, đinh mão mậu thìn đi tuần ở phương đông, trong 7 ngày kỷ tỵ, canh ngọ,
82
tân mùi, nhâm thân, qúy dậu, giáp tuất, ất hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày bính tý, đinh sửu, mậu dần, kỷ mão, canh thìn đi tuần ở phương nam, trong 7 ngày tân ty, nhâm ngọ, qúy mùi, giáp thân, ất dậu, bính tuất, đinh hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày mậu tý, kỷ sửu, canh dần, tân mão, nhâm thìn các thần đi tuần ở trung ương, trong 7 ngày quý tỵ, giáp ngọ, ất mùi, bính thân, đinh dậu, mậu tuất, kỷ hợi thì các thần trở về vị trí cũ ; trong 5 ngày canh tý, tân sửu, nhâm dần, quý mão, giáp thìn các thần đi tuần ở phương tây, trong 7 ngày ất tỵ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, kỷ dậu, canh tuất, tân hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày nhâm tý, quý sửu, giáp dần, ất mão, bính thìn các thần đi tuần ở phương bắc, trong 7 ngày đinh tỵ, mậu ngọ, kỷ mùi, canh thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi thì các thần trở về vị trí cũ; cứ thế mà xoay vòng mãi mãi. Môn quang tinh : Sao Môn Quang theo Phong thủy dương trạch là những ngày trong tháng mà có sao này chiếu rọi thì tốt lành đối với việc đặt cửa, làm cửa và mở cửa. Có 2 cách tính sao Môn Quang. Một, theo khẩu quyết : "Thiêm thiêm tiêu tạc dạ vũ lâm ly vũ quá trường sa mãn động đình đao tại giang hồ lưu bất tận đắc trừng thanh xứ thị trùng thanh" ( tổng cộng 30 chữ, những chữ nào có bộ "Chấm thủy" tức là ngày có sao Môn Quang, như các chữ thiêm, tiêu, lâm, ly, sa, mãn, động, giang, hồ, lưu, trừng, thanh, là ngày lành, còn lại là ngày dữ. Tháng nào đủ thì dùng câu đó, tháng thiếu (có 29 ngày) thì bỏ chữ thứ ba, chữ “Tiêu”; tháng đủ hay tháng thiếu thì đều đếm từ ngày mồng 1 trở đi theo chiều thuận. Ví dụ, ngày 20 tháng đủ, đếm gặp chữ “Lưu” là lành; ngày 20 tháng thiếu, bỏ chủ thứ ba, nên đếm ngày ấy gặp chữ “Bất” là hung. Cách thứ hai, dựa vào ký hiệu sắp xếp cố định để tìm sao Mơn Quang OOXXXOOHHHOOOXXXOOOHHHOOXXXOOO. Tháng đủ 30 ngày thì tính ngược từ phía sau lên phía trước; tháng thiếu chỉ có 29 ngày, thì tính thuận từ trước ra sau, gặp ký hiệu O là ngày lành, gặp hai ký hiệu H và X là ngày hung ( X thì hại cho gia súc, H thì hại cho người). Ví dụ, ngày 21 tháng đủ, tính từ sau ngược lên trước, gặp ký hiệu H, là hung. Tháng thiếu, ngày 21, đếm thuận từ trước ra sau, cũng gặp ký hiệu H là hung. Bốc nhật : Bói để biết ngày giờ lành dữ. Cũng chỉ việc chọn ngày tốt để chôn cất, làm nhà hoặc chuyển nhà. Thuật Phong thủy cho rằng việc chôn cất, dựng nhà, chuyển chỗ ở nếu không chọn năm, thang, ngày, giờ tốt, đất tốt thì sẽ hóa thành hung; cho nên rất coi trọng Bốc nhập Sách Duyệt vi tháo đường bút ký của Kỷ Vân đời Thanh có chép : "Nhà họ Mã nọ trong nhà bỗng nhiên xuất hiện những điều quái gở, khó tin, bèn "Bốc nhật"chuyển chỗ ở thì mọi việc trở lại yên lành". Phù trấn pháp : Phương pháp mê tín ma nghìn xưa sử dụng bùa chú và các vật đặc định khác để trấn yểm nhà cửa, mộ phần hoặc công trình kiến trúc khác, đồng thời tiến hành nghi thức tương ứng đặng giải trừ điều dữ. Tục này có nguồn gốc rất sớm, thới kỳ Tiên Tần đã xuất hiện các hoạt động trấn yểm như người ta thấy về sau. Thời kỳ Hán Đường bùa chú thịnh hành khắp nơi với những hình thức vô cùng phức tạp. Phép trấn yểm liên quan đến âm dương trạch chủ yếu là viết, vẽ bùa, cử hành nghi thức nhất định, rồi đốt,
83
treo hoặc chôn sâu lá bùa để ngăn chặn nhưng điều chẳng lành. Đồng thời tục chôn đá cũng rất thịnh hành, mà nội dung bao hàm từ việc bảo đảm sự bình yên cho ngôi nhà, đến việc đề phòng chuột cắn quần áo, nội dung trấn yểm trong Thuật Phong thủy cũng rất đa dạng, bao hàm đủ thứ ăn mặc, ở, đi lại, chủ yếu nhằm ngăn chặn các hiện tượng quái gở, bằng các hình thức như vẽ bùa, chôn đá, trát bùn đất, khắc gỗ làm tượng. . phép trấn yểm của Thuật Phong thủy, bùa chú của Dạo giáo sử dụng các biến thể Giáp cốt văn, Kim văn cùng phù hiệu vô ý nghía tạo nên, mang màu sắc kỳ bí là nhám an ủi tinh thần người khác. Tục chôn đá có liên quan đến sự sùng bái đá thời cổ. Có bùa chú sử dụng dược liệu, cũng có công dụng trừ tà chữa bệnh nhất định . Tuy nhiên, những nghi thức và vật phẩm đặc định chứng tỏ màu sắc thần bí quá rõ rệt của phép trấn yểm. Tam giáo cứu trạch thần phù: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phàm gia quyến thân thích gặp nhiều tai ương là vì khi làm nhà gặp phải hung tinh cao lớn, cần làm nhà khác. Nếu không làm nhà khác, thì phải cấp tốc sử dụng “Tam giáo cứu trạch thần phù”, gồm 8 lá bìa, dùng bút bằng gỗ hồng đào mà viết vẽ, rồi đem dán ở 8 phương, vài tháng sau tai họa sẽ bớt dần. Trấn lão trạch họa hoạn bát chỉ pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phạm nhà làm đã lâu năm, sinh khí sắp kiệt, người và tiền của đều tổn thương. Cần lấy 5 thăng đất ở phương vị Bản cung Phúc đức của chú nhà, 5 thăng đất ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức trộn với bùn nước chảy về phía đông mà trát lên phương vị Thái tuế của ngôi nhà ấy. Tiếp đó dùng bút mực son vẽ bùa mà yểm. Mỗi trạch trong Bát trạch có số năm nhất định. Ví dụ càn trạch 40 năm là hết sinh khí; Khôn trạch thì 50 năm; nếu không làm nhà thác thì phải trấn yểm như trên. Trấn trạch trung yêu tà pháp : Một trong các phép trấn yểm. Chủ ngăn chặn yêu tà trong nhà. Dùng bút mực son vẽ bài vị Phong Đô đại đế để thờ, tiếp đó dùng thanh bùa bằng gỗ bách dài 1 thước hai tấc mà trấn yểm trong nhà. Trấn phòng ốc tụ hướng pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng đây là cách trân yểm để giải trừ hiện tượng phòng ốc tự dưng vô cớ phát ra âm thanh kỳ dị Dùng Bạch Chi, phèn trắng và một hòn đá xanh nặng 60 cân, Chu Sa 1 tiền, Hùng Hoàng 1 tiền rưỡi, cọng cỏ 7 cái, lấy đất và nước ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức, mỗi thứ 1 thăng, hoà với bùn mà trát lên chỗ có âm thanh lạ. Trấn thủy tinh pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng nếu người ta đào giếng không ở phương vị tốt, thì sẽ gặp hung họa. Khi đó phải dùng hai phiến gỗ bách dài 1 thước rưỡi, dùng bút mực son vẽ hai tấm bùa “Ngũ phương thần chú” đính ở miệng giếng. Lại thả một hòn đá và 1 thăng ngũ cốc vào trong giếng, miệng niệm chú câu sau 7 lần : “Thần giếng năm phương, hãy ở yên chỗ mình". Trấn lân cư động thổ xung phạm pháp Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phàm bốn phía quanh nhà mình mà người ta động thổ làm nhà sẽ đều xung phạm nhà mình, là hung. Phải lấy 3 phiến gỗ dai 3 thước 6 tấc hoặc 1 thước 2 tấc, dùng bút mực son
84
vẽ ba tấm bùa rồi treo ở giữa nhà mình. Mộ huyệt phù : Một trong các phép trấn yểm. Chuyên dùng ở huyệt mộ. Lấy 4 phiến gỗ đào dài 1 thước, vẽ và viết trên đó như rồi cắm ở 4 góc mộ huyệt, để giải trừ hiện tượng nhà cửa không yên, tiền tài hao tán. Giải thổ : Tức cúng Thổ thần để giải trừ hung họa. Thời trước, sau khi ngôi nhà được làm xong, chủ nhà phải làm lê cúng tạ ơn Thổ thần, vì động thổ làm nhà e xúc phạm đến quỉ thần tứ phương. Thường là dùng đất nặn tượng quỉ thần, mời thày cúng tới làm lễ, niệm chú. Thạch thu đường : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà mình đối diện với đường hẻm, cầu, thì dùng tấm bia đa, trên khắc ba chủ "Thạch thủ đường" hoặc năm chữ “Hoàng đế thạch thủ đương” chôn ngay trước cổng để trấn yểâm. Có nhiều thuyết nói về nguồn gốc phong tục này. Có thuyết nói nó xuất hiện từ thời Hoàng đế đánh nhau với Si Vưu; có thuyết nói nó bắt nguồn từ thời Tây Chu, có thuyết bảo từ thời Ngũ đại Văn tự nhắc đến “Thạch thủ đương" sớm nhất là trong sạch Cấp tựu chương của Sử Du đời Hán. Nhan Sư Cổ đời Đường chú giải: “Thạch là họ, thủ đương là mượn tên gọi mà thôi; ý nói là không có gì địch nổi". Phong thủy dương trạch dùng “Thạch thủ đong" để trấn yểm khi có đường hầm hoặc cây cầu đâm thẳng vào phía cổng nha. Đa cần được khắc vào 10 ngày sau giết Đông chí, là các ngày Giáp thìn, Bính thìn, mậu thìn, canh thìn, nhâm thìn, giáp dần, bính dần, mậu dần, canh dần, nhâm dần, tức là vào “các ngày Long (thìn), Hổ (dần). Bia làm xong đêm Trừ tịch dùng ba miếng thịt sống ma cúng, rồi vào giờ Dần thì đem cắm ở cổng. Sơn trấn hải : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà bị đường hẻm đâm thẳng vào, thì dùng một tấm bia đá có khắc ba chữ “Sơn trấn hải" cắm ở trước cổng để trấn áp điều xấu. Tương tự “Thạch thủ dương", song không được phổ biến rộng rãi bằng. NHÂN VẬT VÀ ĐIỂN TỊCH Sủ Lý Tử: (300 trước CN). Tên là Tật, em trai của Tân Huệ Vương, từng nhiều lần đem quân Tần đi chinh phạt các nước Triệum Ngụy, Sở; được phong tước Nghiêm Quân. Khi Tần Vũ Vương lên ngôi ông làm Tả thừa tướng. Là một người túc trí đa mưu, biệt hiệu “Trí Nang" (túi khôn). Sắp chết đa chọn trước cho mình mộ huyệt ở phía nam Vị Thuỷ và nói : “Trăm năm sau, sẽ có cung tiến từ bên mộ của ta”. Đến đời Hán hưng thịnh, ngươi ta đã xây dựng cung Trường Lạc ở phía đông ngôi mộ và cung Vị Ương ở phía tây ngôi mộ, kho vũ khí thì ở ngay chỗ ngôi mộ. Việc này không đáng tin lắm, nhưng các nhà phong thủy dựa vào đó coi Sù Lí Tử là nhà địa lý nổi danh đầu tiên. Thanh Ô tiên sinh : Tức Thanh Ô Tử, người đời Hán. Có thuyết nói ông là người thời Hoàng đế. Tương truyền tinh thông Thuật Phong thủy. Hiện có Thanh Ô tiên sinh táng
85
kinh, 1 quyển, nghi là do người thời Tấn - Đường mạo danh viết ra. Lại có Cựu đường thư Kinh tịch chí chép Thanh Ô Tử, 3 quyển, đã thất lạc. Quản Lộ : ( năm 207 - 256 ), tự Công Minh, người nước Ngụy, ở Bình Nguyên (nay là tây nam huyện Bình Nguyên, tỉnh Sơn đông). Nổi tiếng thần đồng. Từng được thái thú Thanh Hà tên là Hoa khen có tài văn chương, lại được thứ sử Ký châu cho giữ chức Văn học tòng sự, sau đỗ tú tài, làm quan đến chức Thiếu phủ thừa. Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, bói toán, Phong thủy, đoán gì đúng nấy. Từng qua chỗ mộ Vô Khưu Kiệm, tựa gốc cây buồn bã nói "Cây cối rậm rạp như rừng, nhưng vô hình chẳng thể sống lâu; bia mộ tuy đẹp, nhưng không có mặt sau để giữ. Huyền vũ rụt đầu, Thương long không chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu tước than khóc, 4 cái nguy đều có cả, đó là cái họa giết cả họ" (Tam quốc chí, quyển 29. Đây là thuyết Tứ linh của Thuật Phong thủy được thể hiện lần đầu bằng văn tự. Hiện còn sách Quán thị địa lý chí mông, 1 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh. Xem thêm mục Quán thị đều lý chi mông). Quách Phác : ( năm 276 - 324), tự Cảnh Thuần, người cuối thời Tây Tấn, huyện Văn Hỷ, Hà Đông (nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây), tránh loạn đến Giang Đông, lúc đầu được Thái thú thành Tuyên cho làm Tham quân, sau làm Trước tác tá lang, rồi mượn cớ mẹ mất mà từ chức. Sau lại được Vương Đôn ban chức Ký thết tham quân, nhưng vì không theo Đôn mưu phản nên bị Đôn giết. Quách Phác thuở nhỏ yêu thích kinh thuật thơ phú nổi danh một thời, sau theo Quách Công học Dịch lý, địa lý, thiên văn, bói toán , được Quách Công tặng Thanh nang thư. Từng chọn đất mai táng cho mẹ ở bãi sông, người ta báo sao lại chôn dưới nước, ông nói rồi nơi đây sẽ thành đất khô. Quả nhiên về sau nơi đó được cát bồi thành nương dâu. Lại từng chọn mộ cho người khác. Tấn Minh đế từng tới xem, hỏi chủ nhân vì sao chôn ở đất “Long giác", dễ thành tai họa cả họ bị giết. Chủ nhân đáp rằng Quách Phác bảo táng ở tai rồng thì sẽ được nhà vua hỏi tới. Huyền thoại này e của người đời Đường, khó tin. Hiện có sách Táng thư còn gọi là Táng kinh. 1 quyển, đề của Quách Phác, có lẽ do người đời Đường mạo danh viết nên. Tiêu Cát : Tự Văn Hưu, người Lan Lăng (nay là tây bắc thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô), cháu của Lương Vũ Đế. Nhà Lương diệt vong, ông vào Bắc Ngụy làm Nghi đồng. Sau khi nhà Tùy thống nhất, ông làm quan đến chức Thượng nghi đồng, Thái thường; Tùy Dạng Đế lên ngôi, phong ông chức Phủ thiếu khanh. Chết khi đang làm quan. Tiêu Cát là người uyên bác, tinh thông âm dương, thuật đoán mệnh , Thuật Phong thủy. Nhân Thái tử ở Đông cung hay thấy ma quỉ, ông đã lập đàn thần trấn yểm. Lại chọn mộ cho Văn Đế hoàng hậu. Trước tác về phong thủy có Trạch kinh, ý quyển, Táng kinh 6 quyển ; nay đều thất truyền. Song trong trước tác của các nhà phong thuỷ đời sau thường dẫn lời của Tiêu Cát. Thư Xước : Người Đông Dương (nay thuộc tỉnh Chiết Giang), đời nhà Tùy. Giỏi thuật số địa lý. Tể tướng Dương Cung Nhân muốn dời mộ tổ, bèn mời năm sáu ông thày nổi tiếng trong nước tới, lấy đất ở 4 góc ngôi mộ, mỗi góc 1 đấu, vẽ địa hình ngôi mộ rồi bỏ vào phong bì dán kín lại, đoạn đưa đất ra cho các thày phán. Duy chỉ có Thư Xước nói rằng đất ấy có phúc và miêu tả hình thế giống hệt như thực địa. Thiên hạ nhân đó tôn ông là
86
thánh phong thủy. Đây là một ví dụ điển hình về phép nhìn đạt biết phong thủy thời cổ . Lã Tài : ( 665 ), ngươi đời Đường, ở Thanh Bình, Bác Châu ( nay là huyện Liêu, tỉnh Sơn Đông). Giỏi âm dương, thiên văn, phương thuật, địa lý, âm luật học. Thời Trinh Quán vào cung Huyền Văn, làm Lụy thiên thái thường bác sĩ, Thái thường thừa. Từng được triều vào triều san định sách âm dương để ban hành cho thiên hạ. Còn làm “Phương vực đồ”. Các trước tác phần lớn nay đã thất truyền. Hiện còn Tự trạch kinh , Tự táng thư, Tự trạch kinh chuyện bàn về cách phối ngũ tính với ngũ hành để xác định cát hung của nhà ở và huyệt mộ. Táng táng thư thì nói đại ý rằng Táng thư có đến 120 nhà, với đủ thứ thuyết cát hung, cấm kỵ. Song thời thượng cổ chôn cất có ai chọn lựa gì năm tháng ngày giờ chẳng ai tin chuyện lành dữ, cũng không phân biệt họ tên, tước vị, quan chức. Như vậy táng thư chỉ làm bại hoại phong tục, làm những chuyện vô bổ. Lã Tây là người đầu tiên thời cổ đi sâu vào Thuật Phong thủy mà phê phán các yếu tố mê tín. Lý Thuần Phong : ( năm 602 - 670), người đời Đường ở đất Ung, Kỳ châu ( nay là phía nam huyện Phụng Tường tỉnh Thiểm tây). Đầu thời Trinh Quăn, từ chức Tướng sĩ lang vào thẳng Thái sử cục, chế ra máy Hỗn thiên nghi, dần dần được thăng đến chức Thái sử lệnh. Trước tác phong thuỷ có Trạch kinh, Aâm dương chính yếu, nay không rõ bao nhiêu quyển, ngờ rằng do người đời sau mượn tên soạn nên. Khâu Diên Hàn : Tự Dực Chỉ, người đời Đường, ở đất Văn Hỷ ( nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây ). Thuở nhỏ nổi tiếng về văn thơ. Truyền thuyết kể rằng Khâu từng du ngoạn Thái Sơn, gặp thần trong hang đá. nhận “Hải giác kinh", nhờ đó thông hiếu âm dương, phong thủy. Khoảng năm Khai Nguyên ( 7 1 8 - 714 ) có chọn mộ cho viên tri huyện, có khí thiên tử bốc lên trên mộ. Triều đình kỵ điều đó, sai phá bỏ mộ, đồng thời hạ chiếu bắt giữ Khâu Diên Hàn, nhưng ông trốn được. Sau triều đình tha tội, Khâu đem dâng Thiên cơ thư. Đường Huyền Tông phong làm Á đại phu và cất sách kia vào hộp ngọc. Cuối đời Đường thì sách ấy bị Dương Quân Tùng, Tăng Cầu Kỷ lấy trộm. Trước tác có Ngọc hàm kinh , 1 quyển, Hoàng nang đại quái quyết 1 quyển, Nội truyện thiên hoàng biết cực trấn thế thần thư 3 quyển. Theo Địa lý chính tông, Khâu Diên Hàn là đệ tử của Phạm Việt Phụng, mà Phạm Việt Phụng là cao túc của Dương Quân Tùng. Dương là người thời Hi Tông, Khâu là người thời Cao Tông, như vậy là lẫn lộn về thời gian, chứng tỏ truyền thuyết về sự việc và trước tác không đáng tin, là do người đời sau tạo ra. Dương Quân Tùng : Vốn tên là ích, tự Thúc Mậu, hiệu Cứu Bần, người Đậu châu ( nay là phía nam huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông ) đời Đường. Thời Hi Tông, ông làm Quốc sư, làm quan đến chức Kim tứ quang lộc đại phu, phụ trách công việc địa lý của Linh Đài. Năm Quảng Minh ( năm 880 ), khi nghĩa quân Hoàng Sào tiến đánh kinh đô, Dương Quân Tùng thửa cơ rối ren đã lấy trộm sách Thiên cơ thư cất trong hộp ngọc của hoàng thất rồi trốn đến núi Côn Luân, sau đến Kiền châu hành nghề địa lý phong thủy, sáng lập nên phai Giang Tây, được đời sau tôn là tổ sư chính tông của Thuật Phong thủy. Học thuyết của ông lấy hình pháp làm chính, chú trọng hình thế sông núi, phối hợp Long –
87
Huyệt – Sa – Thủy, chú trọng bám sát thực địa , mà ít dung phép suy lý. Về sau do học thuyết này lấy hình pháp làm chỗ dựa, bởi vậy chủ yếu được áp dụng cho Phong thủy âm trạch, mà ít cho phong thủy dương trạch. Trước tác có Hám Long Kinh 1 quyển , Nghi long kinh 1 quyển, Táng pháp chế trượng còn gọi là Thập nhị trượng pháp 1 quyển, Thanh nang áo ngữ 1 quyển, Thên ngọc kinh 1 quyển, Hắc nanh kinh, Tam thập lục long. Nhưng việc và sách của ông không thấy chép trong sử truyện; duy Trực trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn và Tống sử. Nghệ văn chí có chép 12 trước tác đề là của Dương Cứu Bần soạn. Các chuyện về ông phần lớn la do các nhà phong thủy lưu truyền. Tăng Văn Siêm : Có khi viết la Tăng Văn Thuyên hoặc viết lầm thành Tăng văn Địch . Người Ninh Đô (nay là tỉnh Giang tây) đời Đường. Cha là Tăng cầu Kỷ đã cùng Dương Quân Tung lấy trộm Thiên cơ thư trong hộp ngọc của hoàng thất mà chạy đến Giang Nam. Ông là đệ tử giỏi nhất của Dương Quân Tùng, nổi tiếng không kém gì thầy; sau đem thuật học được truyền cho Trần Đoàn. Những điều đó lẫn lộn về thời gian, không đáng tin. Trước tác có Thanh nang tự 1 quyển. Hà Phổ: Tự là Lệnh Thông, người thời Ngũ Đại, Nam Dường; quê quán, lai lịch không rõ. Có Linh thành tinh nghĩa, 2 quyển, thực ra la của người đời Minh mượn tên soạn nên. Xem mục Linh thành tinh nghĩa. Ngô Cảnh Loan : ( 1068 ). Tự Trọng Tường, người Đức Hưng (nay là tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Tương truyền cha ông là Ngô Khắc Thành từng theo học Trần Đoàn, được thầy truyền hết nghề. Loan từ bé thông minh đĩnh ngộ, được cha truyền lại cái học của Trần Đoàn. Năm Khánh Lịch thứ nhất ( năm 1041), triều đình hạ chiếu tuyển dụng các nhà âm dương. Ngô Cảnh Loan được tiến cử vào kinh đô, ứng đối trôi chảy được giữ chức Tư thiên giám chính. Sau do trái ý Tống Nhân Tông, bị hạ ngục. Nhân Tông chết, ông được phóng thích, bèn gọt tóc giả điên, đi ẩn cư. Mất năm Trị Bình thứ nhất (l068 ). Cái học của ông được truyền cho con gái, sau truyền cho Liêu Vũ. Trước tác có Lý khí tâm ấn, Ngô Công giải nghĩa. Tiếp tục viết xong 2 cuốn sách cha mình viết dở là Thiên ngọc kinh ngoại truyện, Tứ khố toàn cục đồ. Liêu Vũ : Tự Nghiêu Thuần, lại có tự là Vạn Bang, người Vu Đô ( nay là huyện Vu Đô, tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Có thuyết nói lầm ông là người đời Đường. Thuở nhỏ thông minh, 15 tuổi thông thuộc ngũ kinh, dân làng nhân đó đặt cho biệt hiệu “Liêu Ngũ kinh". Khoảng năm Kiến Viêm ( 1127 - 1 130 ) đi thi không đỗ. Ông được truyền thụ cái học từ con gái của Ngô Cảnh Loan, tinh thông Thuật Phong thuỷ. Sau ẩn cư ở núi Kim Tinh, do vậy có biệt hiệu “Kim Tinh sơn nhân". Trong giới phong thủy, nổi tiếng ngang với Dương Quân Tùng, Liêu Văn Xiêm, Lại Văn Tuấn thành tên gọi gộp “Dương, Tăng, Liêu, Lại". Trước tác có Cửu tinh huyệt pháp, 4 quyển, Biết cực kim kinh (không rõ mấy quyển, nghi là do người đời sau mạo danh ). Thái Nguyên Định : (năm l]35 – 1198) Tự Quý Thông, người Kiến Dương ( nay là tỉnh Phúc Kiến ). Cha vốn là nhà Lý học, thuở nhó ông theo học cha mình, sau thành học trò
88
của Chu Hy, cùng Chu Hy biện luận ý nghĩa các kinh đến tận đêm khuya. Học trò bốn phương đến học, nếu hỏi gì thì Chu Hy bao giờ cũng trao đổi trước với Thái Nguyên Định . Khi Hàn Thái Trụ nêu việc “Cấm ngụy học” ông bị đày đi Đạo châu. Đến Xuân Lăng, học trò theo học càng đông. Ông chết ở đó, sau khi chết được truy tặng thụy hiệu Địch công lang, Văn Tiết. Trước tác rất nhiều, về phong thủy có Phát vi luận 1 quyển, dùng học thuyết Nho gia giải thích lý luận phong thủy. Xem thêm mục Phát vi luận. Vương Cấp : Tự Triệu Khanh, còn có tự là Khổng Chương, người thời Nam Tống. Tổ tiên vốn ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam ), sau di cư đến Cán châu (nay là tỉnh Giang Tây). Vương Cấp chịu khó học hành, nhưng đi thi hai lần không đỗ, bèn bỏ nhà đi ngao du sơn thủy. Sau ông yêu thích phong cảnh núi Long Tuyền mà định cư tại Tùng Nguyên ( nay là huyện Tùng Khê, tỉnh Phúc Kiến ). Ông đọc các sách phong thủy của Quản Lộ, Quách Phác, nắm vững và vận dụng vào việc chọn huyệt mộ cho người ta, sao cho con cháu họ quí hiển, thường thường linh nghiệm. Lập luận của ông coi trọng lý pháp và các nguyên lý thuật số để định cát hung của phương vị tọa hướng, mà coi nhẹ hình thế sông núi, nên ông trở thành nhân vật tiêu biểu cho trường phái Phúc Kiến ( thiên về Lý pháp). Trước tác có Tam kinh và các ghi chép vấn đáp, được môn nhân là Diệp Thúc Lượng biên soạn thành sách. Lại Văn Tuấn : Tự Thái Tố, hiệu Bố Y Tử, nên còn có tên Lãn Bố Y, người Xử châu (nay là huyện Lệ Thủy tỉnh Chiết Giang) đời Tống. Có thuyết nói ông người Ninh Đô ( nay là tỉnh Giang Tây) đời Đường là nhầm. Theo truyền ngôn của các nhà phong thủy, Lại Văn Tuấn là con rể Tăng Văn Siêm, đệ tử đời thứ ba của Dương Quân Tùng. Làm quan đến chức Kiến Dương lệnh, sau mê thuật phong thủy nên từ quan mà hành nghề địa lý. Hiện nay một dải đất Quảng Đông có rất nhiều truyền thuyết về ông. Trước tác có Thiệu Hưng đại địa bát kiềm, đã thất truyền. Chỉ còn Thôi quan thiên, 2 quyển. Lưu Binh Trung : (năm 1216 - 1274). Thoạt đầu tên là Khản, tự Trọng Hối. Tổ tiên vốn là người Thụy châu (nay ]à thành phố Hình Đài tỉnh Hà Bắc ). Năm 17 tuổi làm Tiết độ sứ phủ lệnh sử Hình Đài, sau bỏ quan vào rừng đi tu, đổi tên thành Tư Thông. Hốt Tất Liệt (Nguyên Thế tổ) triệu vào dinh cùng bàn việc cơ mật, nên người ta gọi ông là “Thông thư ký". Sau khi Hốt Tất Liệt lên ngôi , liền phong cho ông chức Quang lộc đại phu, Thái bảo, Tham dự trung thư tỉnh sự và ban cho cái tên Bỉnh Trung. Ông tham gia bàn tính nhiều kế sách lớn trong thiên hạ. Ông tinh thông cái học âm dương địa lý, từng giám sát việc xây dựng Thượng Đô (hiện ở Nội Mông) và Đại Đô (nay là thành Bắc Kinh ), dùng Thuật Phong thuỷ để xác định qui mô hai Đô ấy. Cuối đời lại có hiệu Tàng Xuân Tản Nhân, khi chết được truy phong tước Thường son vương, thụy Văn Chinh. Trước tác có Ngọc Xích kinh 4 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh soạn nên. Lưu Cơ : (năm 1311 – 1875) Tự Bá ôn, người Thanh Điền ( nay là tỉnh Chiết Giang ) đời Minh. Đỗ tiến sĩ cuối đời Nguyên, bỏ quan đi ẩn cư. Sau phò tá Chu Nguyên Chương dựng nước, giữ chức Khanh sử trung thừa, Thái sử lệnh, tước Thanh Yù bá. Khi mất được phong thụy Văn Thành. Lưu Cơ tinh thông âm dương, thiên văn, thuật số; người đời sau
89
tạo các đồ thư thường mượn tên ông. Hiện còn Phệ can lộ đởm kinh. Kham dư mạn hung cùng nhiều bản chú. Cung trạch địa hình : Tên sách. Không rõ tác giả. 20 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào phái Hình pháp. Sửù ký khảo chứng nói sách này bàn về phương vị phong thủy". Hán chí viết : “Thuộc loại Hình pháp, bàn về hình thế 9 châu đề xây dựng nhà cửa thành quách". Đủ biết sách này là trước tác phong thủy sớm nhất chuyên bàn về phong thủy dương trạch. Kham du kim quí : Tên sách. Không rõ tác giả, 14 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào loại ngũ hành. Sử ký khảo chứng nói sách này bàn về “phương vị phong thủy". Theo Sử ký. Nhập giả liệt truyện, các nhà Kham dư (địa lý) từng tham khảo phần bàn về ngày lành cho việc cưới vợ, thuộc về “Chiêm gia” (thày bói), đủ biết đây không chỉ là sách phong thủy. Lai theo Luận hoành, Chu Lễ chú, Hoài Nam Tử, Thuyết văn giải tự, thì hai chữ Kham dư là tên vị thần, có thuyết nói la tên gọi chung trời đất, không phù hợp hoàn toàn với những gì phong thủy đề cập. Cho nên nghĩ rằng sách nay là sách bói toán, trong đó có phần bàn về phong thủy. Thanh Ô tiên sinh táng kinh : Tên sách. Trước đề là do Thanh Ô tiên sinh (Thanh Ô Tử) đời Thanh soạn Kim thừa tướng Ngột Khâm Trắc chú, 1 quyển. Trong lời tựa viết: “Táng thư của họ Quách thường dẫn "Kinh viết” chính là sách này vậy”. Khảo cứu văn của Kinh viết trong Táng thư với Thanh ô tiên sinh táng thư, thì thấy có nhiều điểm giống nhau, song cũng có chỗ khác nhau. Tứ khố toàn thư tổng mục viết : “Văn sách này thiển cận, kinh với chú như của cùng một người viết ra, hẳn là người đời sau mạo danh kinh vậy”. Khảo cứu các sách như Văn tuyển, Sơ học ký, Thái bình ngự lãm có Sách Tướng chủng thư ( sách xem mộ) của Thanh Ô Tử thì nghi là sách này. Sách Táng thư ~ của Quách Phác đời Đường thì mãi về sau này (mấy trăm năm sau) mới xuất hiện, trong khi Tướng chủng thư thì đã sớm thất truyền cho nên nghi là người đời sau mạo danh viết ra. Nội dung Táng kinh khá tỉ mỉ, chuyên bàn về cát hung của hình thế sơn thủy, lại đưa ra những qui tắc thế nào là đất công hầu, đất tể tướng, đất phú quí, đất văn sĩ mà không có lý luận kèm theo. Đồ trạch thuật : Tên sách. Tác giả là người thời Đông Hán, khuyết danh. Sách này nay đã thất truyền, chỉ còn hai đoạn văn nói sơ qua về lành dữ trong cách phối hợp ngũ tính ngũ hành nhà ở, thuộc loại văn tự sớm nhất về phong thủy còn giữ được đến ngày nay. Quán thị địa lý chỉ mông : Tên sách. Trước đề là của Quản Lộ đời Tam Quốc nước Ngụy Soạn. Tổng cộng 100 thiên. Thực ra là sách của ngưđời đời Minh viết ra. Chuyên ban về hình pháp âm trạch là chính, văn từ thanh nhã, chú giải rõ ràng. Thuyết hình pháp đến đây đã hầu như hình thành quá nửa. Duy sách trình bày thành 100 thiên là gò ép miễn cưỡng, rắc rối khó đọc. Táng thư : Tên sách. Còn gọi là Quách Phác táng thư, 1 quyển. Trước đề là do Quách Phác đời Tấn soạn; nhưng sách này xuất hiện lần đầu trong Tống sử. Nghệ văn chí khảo sát nội dung, thì sách này hẳn do người đời Đường viết, mạo danh Quách Phác. Sau khi
90
sách ra đời các nhà phong thủy thêm thắt vào, thành ra hơn 20 thiên. Thái Nguyên Định đời Tống mới san định lại còn 8 thiên; Ngô Trứng san đinh lại còn 2 thiên nội, ngoại tức bản hiện hành. Sách này nêu các thuyết, như thuyết Sinh khí, thuyết Tam cát lục hung, thuyết Hình thế, thuyết Ngũ bất táng phát triển hoàn thiện thuyết Tứ linh; đồng thời đề xuất định nghĩa Phong thủy, tôn định hệ thống lý luận của Thuật Phong thủy, là tiêu chí hoàn toàn chín muồi của phong thủy âm trạch, trở thành một trước tác lý luận rất quan trọng của học thuyết phong thủy. Đời sau tôn sùng gọi là “Táng kinh". Trong Táng thư có nhiều chỗ viết hai chữ “Kinh nói”, đủ hiểu trước sách này từng có một bộ Táng kinh, sách nay chi la tiếp tục phát triển học thuyết kia mà thôi. Thanh nang Hải giác kinh : Tên sách. Tên đầy đủ là Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh, trước đề do Quách Phác đời Tấn tu chỉnh, đòng thời có lời tựa của Trương Sĩ Nguyên đời Tống và Ngô Thiên Tước đời Minh, 4 quyển. Sách này nửa đầu nói về Lý khi, nửa sau về Hình pháp, chuyên luận âm trạch, nội dung cực kỳ rắc rối. Tam ban đại quái, Long huyệt sa thủy, nào ngũ tinh cửu tinh, chính thể biến thể, đều tập hợp ở sách này. Có thiên chuyên bàn về huyệt pháp, lại được nhắc lại phía sau, văn từ lúc nhã lúc thô, dưới chính văn có chú văn, không rõ của ai. Ngờ rằng sách này là do người từ đời Minh trở đi mạo danh Quách Phác mà soạn nên. Trạch kinh : Tên sách. Thời Tùy Đường có rất nhiều sách Trạch kinh lưu truyền, không dưới vài ba chục loại; theo người đời sau chép lại, thì có Hoàng đế nhị trạch kinh, Địa điển trạch kinh, Tam nguyên trạch kinh, Văn vương trạch kinh, Khổng tử trạch kinh, Thiên lão trạch kinh, Lưu căn trạch kinh, Huyền nữ trạch kinh, Tư Mã Thiên sư trạch kinh, Hòai nam Tử trạch kinh, Vương Vĩ trạch kinh, Tư tối trạch kinh, Lưu Tấn Bình trạch kinh, Lục thập tứ quái trạch kinh. Hữu bàn long trạch kinh, Tả bàn long trạch kinh, Lý Thuần Phong trạch kinh, Ngũ kinh trạch kinh, Lã Tài trạch kinh, Phi âm loạn phục trạch kinh, Tử Hạ trạch kinh, Điêu Đàm trạch kinh, Huyền Ngộ trạch kinh, Ngũ Phi trạch kinh, Bát Quái trạch kinh, Tiêu Cát trạch kinh .v.v… trong đó có một số là cùng một sách mà đề tên khác nhau, nay đã không thể khảo cứu, vì hiện chỉ còn Hoàng đế nhị trạch kinh, các sách khác đã thất truyền. Sự xuất hiện nhiều trạch kinh như vậy chứng tỏ trước tác phong thủy rất thịnh hành vào đời Tùy đường. Hoàng đế trạch kinh : Tên sách. Còn gọi là Hoàng đế Nhị trạch kinh. Không rõ người soạn. 2 quyển. Nhị trạch tức là dương trạch và âm trạch. Sách chia ra 24 phương vị, khu biệt âm dương, qui định cát hung, xác định hưu cữu. Điều cơ bản là âm dương tương đắc, phương vị không loạn. Không khảo sát hình dạng cụ thể và địa hình xung quanh nhà ở, cho nên có học giả coi đây là trước tác đại biểu cho trường phái Lý pháp trong phong thủy. Sách bàn nhiều về việc chọn ngày có ảnh hưởng lớn tới việc chọn lựa ngày giờ của Thuật Phong thủy đời sau. Tứ khố toàn thư cho rằng sách này “rất có nghĩa lý” lại viết rằng trong Tổng sử có chép Tướng trạch kinh 1 quyển, chính quyển sách này. Nhưng khảo sát văn hiến Đôn Hoàng, thấy đã có văn bản Hoàng đế trạch kinh đủ giết sạch đã được lưu hành rộng rãi từ đời Đường, và hoàn toàn không phải là bản Tướng trạch kinh chép trong Tống sứ. Nghệ văn chí.
91
Thập nhị trượng pháp : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Sách này chuyên bàn về phép điểm huyệt căn cứ hình thể bối hướng của Lai long, sự thuận nghịch mạnh yếu của khí mạch mà chia ra 12 loại huyệt pháp là : thuận trượng, nghịch trượng, túc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, cao trượng, một trượng, đối trượng, tài trượng, phạm trượng, đốn trượng. Tiếp đó lại phân ra 17 loại trượng kiêm như: thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm túc, thuận trượng kiêm xuyết, thuận trượng kiêm xuyên, thuận trượng kiêm cao, thuận trượng kiêm đốn, thuận trượng kiêm một, thuận trượng kiêm đối, thuận trượng kiêm tài, thuận trượng kiêm phạm, nghịch trượng kiêm túc, nghịch trượng kiêm xuyết, nghịch trượng kiêm khai, nghịch trượng kiêm xuyên, nghịch trượng kiêm cao.. Mỗi loại đều có đồ hình, mỗi đồ hình có thuyết minh, căn cứ trượng pháp định huyệt có thể tránh hung đón cát. Nguyên tắc chung là phân liệt từng li từng tấc để thụ khí. Dương Quân Tùng lại có Táng pháp đảo trượng, thực ra là Thập nhị trượng pháp, mà cuối sách kèm theo 1 thiên “24 sa táng pháp"' Thập nhị trượng pháp là trước tác quan trọng của trường phái Hình pháp của Thuật phong thùy, có ảnh hưởng rất lớn. Nghi long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này gồm 3 thiên thượng, trung, hạ. Thiên thượng bàn về Can long tìm chi, lấy “thủy khẩu quan cục" làm chính; thiên trung bàn về phép tìm phần tận cùng của long, phép nhìn triều ứng trước sau, thiên hạ bàn về hình thế kết huyệt. Cuối sách kèm theo “Nghi long thập vấn" đề giải thích những chỗ khó. Là trước tác lý luận quan trọng, được lưu hành rộng rãi , của trường phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Sách Trưc trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn đời Tống co chép sách này, nhưng không nói ai là tác giả, nên Tứ khố tòan thư tống mục viết : “Bản này không biết của ai". Hám long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này chuyên luận về hình thế của sơn long mạch lạc, chia ra 9 sao : Cự môn, Tham lang, Lộc tồn, Văn khúc, Vũ khúc, Liêm trinh, Phá quân, Hữu Bật để nhận biết hình dạng sơn và phân biệt cát hung. Là trước tác tiêu biểu của trường phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Thanh nang áo ngữ : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này chuyên bàn về hình thế sông núi phân ra âm dương thuận nghịch, cửu tinh thất diệu để phân biệt cát hung quí tiện. Khảo sát sách Quận trai độc thư chí của Triệu Hy Biền đời Tống có chép Thanh nang bản chỉ, 1 quyển, không đề người soạn sách Trực trai thư lục giải đề có chép Diệu kim ca, Tam thập đồ tượng của Dương Quân Tùng, 1 quyển; sách Thông chí. Nghệ văn lọc của Trịnh Tiêu lại có chép Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Xiêm, 1 quyển không biết có phải là sách này chăng. Bản này được lưu hành đồng thời với Thanh nang tự của Tăng Văn Siêm. Kim cương toàn bản hình pháp táng đồ quyết : Tên sách. Tên đấy đủ là Dương Tái Thương tiên nhân Dương công Kim cương tòan bản hình pháp táng đồ quyết, 1 quyển. Đầu sách có lời tựa, nói là của Dương Quân Tùng,
92
rằng “Long hung mà huyệt cát, vô tình mà có tình vậy, tuy có phúc nhưng không lâu bền; còn long cát mà huyệt hung, có tình mà là vô tình vậy, tuy hung nhưng lại có phúc", cho nên sách bàn về cách dùng sức người cải tạo địa hình Long cát mà huyệt hung, để tránh hung đón cát. Sách có 24 bản hình, 24 pháp táng, kèm theo thuyết minh. Phàm Lai Long mà có tình, thì dù thuỷ thế nào, mạch ra sao, Minh đường rộng hay hẹp, đều có thể dùng nhân công cải tạo làm cho huyệt trở nên cát (lành ). Thanh nang tự : Tên sách. Trước đề là do Tăng Văn Siêm soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này lưu hành đồng thời với Thanh nang áo ngữ của Dương Quân Tùng. Sách lấy ngũ hành phối hợp với 8 Can, khởi tính Tràng sinh theo từng hành. Tiếp đó lấy hợi mão mùi làm mộc cục, dần ngọ tuất làm hỏa cục, tỵ dậu sửu làm kim cục, thân tý thìn làm thủy cục, cứ thế diễn dinh, cộng thành 48 cục, dương nghịch âm thuận, dùng để phán đoán cát hung của phương vị thủy lưu toạ hướng. Thực ra là “Song sơn ngũ hành" đón sau. Tứ khố toàn thư tổng mục cho rằng các sách đời sau như Ngô Công giáo tử thư, Ngọc xích kinh, Trục chí nguyên chân đều là sự tiếp tục phát triển thuyết này mà thành, cho nên Thanh nang tự là trước tác quan trọng của trường phái Lý pháp trong Thuật Phong thủy là khởi đầu của sáng lập pháp . Song Tứ khố toàn thư tổng ngục lại nói Tăng Văn Siêm là đệ tử của Dương Quân Tùng, nhân vật trung kiên tiêu biểu cho trường phái Hình pháp, chứ không phải cho trường phái Lý pháp. Khảo cứu sách Thông chí. Nghệ văn lược của Trịnh Tiêu thấy có chép Thanh nang tử ca, 1 quyển, của Tăng Văn Xiêm và Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Siêm, 1 quyển: không có Thanh nang tự nên sách này có lẽ do người đời sau soạn ra, mạo danh Tăng Văn Siêm cho thêm vẻ kỳ bí. Linh thành tinh nghĩa: Tên sách. Trước đề do Hà Phố đời Nam đường soạn Lưu Cơ đời Minh chú. 2 quyển. Quyển thượng nói về hình thế sơn thủy, biện Long định huyệt chủ theo thuyết Hình pháp. Quyển hạ bàn về thiên tinh quái lệ, cát hung sinh khắc, để định huyệt lập hướng, lại theo thuyết Lý pháp pha tạp hai phái Hình và Lý. Thuyết “nguyên vận" dùng trong sách nay vốn xuất hiện từ đầu đời Minh nên chắc bằng sách nay hẳn phải do người đời Minh soạn mới đúng. Cửu tinh huyệt pháp : Tên sách. Trước đề do Liệu Vũ đời Tống soạn, 4 quyển. Sách này chuyên nói lấy Cửu tinh phân biệt hình dạng huyệt. Cửu tinh là Thái dương, Thái âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Ao não, Thiên Canh, Bình não, Song não; mỗi sao lại phân 9 thể : Chính thể (ngay ngắn), Khai khẩu (há miệng), Huyền nhũ (treo vú), Cung cước (cong chân), Song tí (hai cánh tay), Đơn cổ (một đùi), Trắc não (đầu), Một cốt (khung xương), Bình diện (bằng phẳng). Mỗi thứ đều có đồ hình và thuyết minh. Là trước tác quan trọng cua thuyết Hình pháp liên quan đến việc định huyệt. Sách còn nói nếu hình sơn không đẹp có thể dùng sức người san lấp tăng giảm. Phát vi luận : Tên sách. Thái Nguyên Định đời Tống soạn. Nội dung chủ yếu nói về Địa đạo một âm một dương, một cương một nhu, phàm sự động tĩnh, tụ tán, hợp phân, hướng bối, thư hùng (đực cái), thuận nghịch, mạnh yếu, sinh tử, vi trước (nhỏ, rõ), phù trầm (chìm nổi), sâu nông .. .của sơn thủy đều có thể từ đó mà phân biệt rõ ràng, nghĩa là theo trường phái Hình pháp. Cuối sách có kèm một thiên nhan đề “Nguyên cảm ứng” muốn
93
dùng học thuyết Nho gia mà nghiên cứu và đề cao địa vị phong thủy. Thái Nguyên Định là học trò Chu Hy, quan điểm của ông phản ánh thái độ Lý học tán dương Thuật Phong thủy. Có thuyết nói sách này do Thái Thu Đường soạn. Thái Thu Đường tức Thái Phát, hiệu Thu đường lão nhân, là cha của Thái Nguyên Định, cũng tinh thông địa lý. Thôi quan thiên : Tên sách. Lại văn Tuấn đời Tống soạn. 2 quyển. Gồm 4 thiên Long, Huyệt, Sa, Thủy, mỗi thiên có ca quyết và chú giải. Long thì lấy 24 sơn chia âm dương, lại phân ra tam cát lục tú, mà thay đổi thụ huyệt. Huyệt thì lấy Long làm chủ, nhưng tùy theo khí mạch mà phân tả hữu. Sa, Thủy thì lấy phương vị phán đoán cát hung theo cái lý sinh khắc chế hóa của âm dương ngũ hành. Tuy nhiên có nhiều điều vô căn cứ ví dụ cho rằng Đoài Long Thìn thủy chủ đời con có sẽ bị bệnh sâu răng, hư răng, bởi lẽ Thìn có kim sát, Đoài là miệng lưỡi, răng lợi bị kim sát thì răng gãy, răng hư. Ngọc xích kinh : Tên sách. Trước đề Lưu Bỉnh Trung đời Nguyên soạn, Lưu Cơ đời Minh chú. 4 quyển. Thực ra người soạn và người chú đều là cuối đời nhà Minh. Sách nói về các mạch núi lớn trong thiên hạ, Côn Luân là tổ của vạn ngọn núi. Ngũ nhạc cùng Trương Giang, Hoàng Hà phối với 24 sơn. Nói rằng toạ hướng Long, Huyệt cát hung lấy thủy làm chính, không hề tính đến hình thế của sơn, cường điệu cát hung của thủy khẩu, coi Giang Nam là địa hình chính tông. Tưởng Bình Giai nói rằng sách này "sao chép cách phân chia Long thành thuận nghịch và Sa thành quí tiện của hai nhà Dương, Lại; lập luận theo kiểu ức thuyết, nông cạn" (Địa lý biện chính). Kham dư mạn hưng : Tên sách. Trước đề do Lưu Cơ đời Minh soạn. 1 quyển. Sách toàn dùng ca quyết thất ngôn tứ cú, tổng cộng 150 đề, luận Long, Huyệt, Sa, Thủy lấy Hình pháp làm chính. Lời văn ý tứ sáng sủa, tuy trước sau hay lặp lại, rất ít ví dụ. Địa lý đại toàn : Tên sách. Lý Quốc Mộc đời Minh soạn. 2 tập, 55 quyển. Tập hợp rất nhiều trước tác phong thủy của Quách Phác, Khâu Diên Hàn, Dương Quân Tùng, Liêu Vũ, Thái Nguyên Định, Lưu cơ, Tăng Văn Siêm, Lưu Bỉnh Trung, Lại Văn Tuấn, Ngô Khắc Thành, có đến hơn 10 loại Kèm theo phụ đồ, phụ thuyết của Lý Quốc Mộc, chiêm đến một nửa bộ sách Tập chuyên luận về Hình pháp, tập 2 luận về Lý pháp. Tuy việc tuyển chọn không tinh, nhưng phải nói là dày công. Táng kinh dực : Tên sách. Mậu Hy Ung đời Minh soạn. 1 quyển. Nửa sách này nói về Táng thư của Quách Phác, phần giữa giải thích “Thập nhị trượng pháp" của Dương Quân Tùng; phần cuối tạp giải Tam hợp, Bát tự, kèm theo “Nan giải 24 thiên". Lấy Hình pháp làm chính. Lời văn rõ ràng, tinh tế. Thuỷ long kinh : Tên sách. Không rõ soạn giả, 5 quyển. Đầu sách có lời Tựa của Tưởng Bình Giai là người ở buổi giao thời Minh - Thanh, viết năm "Hạ nguyên Quý Mão" (tức năm 1663), người Tùng Giang, Giang Tô, một người tinh thông Thuật Phong thủy. Quyển 1 nói về đại thể Hành long kết huyệt, chi long can long tương thửa; quyển 2 nói về chính thể và biến thể ngũ tinh, thẩm biện cát hung; quyển 3 nói về cách cục của thủy - long; quyển 4 nói về tượng thủy - long thác vật tỉ loại; quyển 5 nhan đề "Thân ngôn". Trước sau tuy có mâu thuẫn, nhưng thể lệ về cơ bản như của một tác giả, nên ngờ rằng sách này là do Tưởng Bình Giai tham khảo các trước thuật liên quan mà soạn ra, chứ không chỉ
94
viết lời Tựa. Nội dung sách là vấn đề làm nhà xây mộ ở vùng đồng bằng sông nước, nhiều hình vẽ mà ít lời văn, căn cứ hình dạng để định cát hung. Lại kèm theo thuyết Sơn long, lấy Can thủy làm Hành long, Chi thủy làm Chi long, Can Chi tương phối, nội ngoại hợp khí. Lại tạo Ngũ tinh thủy hình, Tinh tú thủy hình, nhưng dựa vào hình để nhận biết cách, không nói đến Lý pháp; ca quyết thì thô kệch vụng về. Dương trạch thập thư : Tên sách. Không rõ soạn giả. 10 quyển. Cuối sách có lời Bạt, với câu “Vương Tử đã soạn xong Dương trạch thập thư” chứng tỏ soạn giả họ Vương. Nội dung rất phức tạp, bao gồm những gì liên quan đến lý luận, phương pháp của Phong thủy dương trạch. Sách có 10 thiên là : Luận trạch ngoại hình, Luận phúc nguyên, Luận đại du niên, Luận xuyên cung cửu tinh, luận huyền không trang quái quyết, Luận khai môn tu tạo môn, Luận phóng thủy, Luận trạch nội hình, Luận tuyển trạch, Luận phù trấn. Do vậy có tên Dương trạch thập thư. Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng và Ngô Cảnh Loan, kèm với lời bình chú của soạn giả.
95