THIÊN VĂN HỌC PHƯƠNG ĐÔNG Tác giả: Bùi Dương Hải
Phần I. Quan sát Thiên Văn MỞ ĐẦU Thiên Văn không phải là một môn khoa học mới mẻ. Từ thuở bình minh nhân loại, khi biết tìm ra lửa, chắc hẳn loài người cũng đã nhìn ngắm bầu trời đêm với các vì sao, dù là để gửi gắm tâm linh, tìm tòi tri thức hay đơn giản là mơ mộng. Cho đến ngày nay, nhờ những kiến thức Vật lý, Toán học hiện đại, con người đã tiến những bước rất dài trong việc tìm hiểu khoảng không bao la bên ngoài cái trái đất hỗn độn và nhỏ bé này. Trong những thành tựu đó, có không ít công sức của những những người đi trước từ thời thượng cổ, cả phương Tây cũng như phương Đông. Những kiến thức của khoa học hiện đại mang nhiều dấu ấn phương Tây, và toàn bộ thuật ngữ đều là các từ Latin, nhưng không phải vì thế mà người phương Đông không có những thành tựu của riêng mình, thậm chí những thành tựu đó – trong những thời kì nhất định – còn vượt xa tri thức phương Tây. Những cái tên quen thuộc: dải Ngân Hà, chòm sao Thần Nông, sao Thương, Tua Rua,…, rất gần gũi với cuộc sống người dân Việt, một quốc gia cư dân lúa nước phương Đông. Việc tìm hiểu thành quả quan sát thiên văn cũng như tư tưởng về Vũ trụ của tiền nhân là điều không thể thiếu với những người yêu thiên văn. Văn minh phương Đông đại diện bởi Trung Hoa và Ấn Độ, mà trong đó nền văn minh Trung Hoa đã tiếp nhận khá nhiều tư tưởng của Ấn Độ để tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy trong bài này chủ yếu đề cập đến thành quả của người Trung Hoa Trong bài viết này, tôi phân chia thành 2 phần lớn, là Quan sát thiên văn và Vũ trụ quan. Phần đầu là những quan sát của các nhà thiên văn cổ, sự phân chia bầu trời và các thiên thể, những hiện tượng quan sát được. Phần hai là sự khái quát tư tưởng, hình thành những yếu tố triết học, tìm hiều quy luật của Vũ trụ, mà trong đó con người là một bộ phận quan trọng. 1. NHỮNG TÀI LIỆU VÔ GIÁ Năm 2004, Bảo tàng Anh quốc công bố tấm bản đồ sao cổ hoàn chỉnh nhất thế giới, tìm thấy ở Đôn Hoàng, Trung Quốc năm 1907, được làm vào đời Đường, khoảng năm 600(1). Tấm bản đồ là một cuộn giấy rộng 25cm, dài 2,1m vẽ và chú thích tên chi tiết bằng tiếng Hán 1345 ngôi sao, phân thành 257 chòm. Cho đến tận thời Phục Hưng ở châu Âu, trước khi có kính thiên văn, chưa bao giờ có một bản đồ sao chính xác và chi tiết đến thế. Trong đó có nhiều ngôi sao gần như không thể thấy được bằng mắt thường.
ᄃ
Một phần bản đồ sao Đôn Hoàng (đời Đường, thế kỷ VII)
Đây là sự kiện thú vị với những nhà khảo cổ, nhưng thực ra không lạ đối với các nhà thiên văn học, bởi từ thời thượng cổ, những người phương Đông, mà cụ thể là người Trung Hoa đã hình thành và phát triển khoa học thiên văn với trình độ rất cao mà những thành tựu đã được ghi nhận cho đến ngày nay. Với đặc trưng nền nông nghiệp lúa nước, có thể nói mọi người nông dân đồng bằng Hoàng Hà đều đã là những người quan sát tự nguyện để phục vụ việc canh tác. Khi các hình thức nhà nước được thiết lập, vì mê tín và muốn củng cố địa vị “con trời”, nên một trong những việc đầu tiên của các vị Thiên tử là tập hợp những người có kiến thức thiên văn phù trợ cho mình trong việc mong muốn tìm hiểu ý trời. Ngay từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên (TCN), các đài quan sát thiên tượng đã được dựng ở kinh đô các quốc gia sơ khai. Lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi (221 TCN), đã ra lệnh đốt sách Nho giáo và các tư tưởng. Tuy sách thiên văn thuộc về bói toán, nằm ngòai danh sách phải hủy, nhưng cũng rất nhiều quyển đã chịu chung số phận, nên những gì còn lại về thời trước đời Tần chỉ rất rời rạc và hạn chế. Sau đó chính Tần Thủy Hoàng cũng trọng dụng ngay 300 người làm nghề xem sao. Dù lúc đầu chỉ là xem sao, tính lịch và bói toán, nhưng dần dần với thiên hướng ghi chép lại mọi sự vật hiện tượng diễn ra, các chiêm tinh gia đã chuyển thành nhà thiên văn học, đứng đầu là các quan Thái sử, đảm nhiệm chép sử, xem thiên tượng, làm lịch, tính ngày, xem địa lý và cả khí tượng. Các ý kiến về quan sát thiên văn sớm nhất ở Trung Hoa không thống nhất. Có người đẩy về tận năm 6000 TCN, mà dấu tích còn lại trên một vài vách đá, hoặc một số bài thơ truyền miệng. Đa số cho rằng nó vào khoảng thế kỷ 24 TCN, với dấu tích là các giáp cốt văn (ghi trên xương thú, mai rùa). Các ghi chép bắt đầu rõ ràng vào khoảng đời nhà Thương - 1500 TCN. Thời điểm này có có ý kiến là do có sự giao lưu với văn
hóa Babylon, tuy nhiên trong khi nền văn hóa Babylon gần như không còn để lại dấu tích nào về thiên văn, thì người Trung Hoa lại gìn giữ những ghi chép liên tục cho đến tận ngày nay. Trước sự hốn độn, không thống nhất, không đối xứng của các vì sao, người Trung Hoa gọi bầu trời nói chung là Hỗn Thiên. Từ Thiên Văn mà ta dùng ngày nay, mang nghĩa “Hình tượng trên bầu trời”. Trước khi có phát hiện về bản đồ sao Đôn Hoàng, bản đồ sao hoàn chỉnh sớm nhất của loài người được ghi nhận là bản đồ sao đời Bắc Tống, vẽ vào thời Nguyên Phong (1078 - 85), được khắc lên bia đá năm 1247, đặt trong khu đền Khổng Tử, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên tấm bia Thiên Văn đồ đó chia rõ phương vị, cung độ, gồm 1434 vì sao được chia thành các chòm, có đủ Hoàng đạo, Thiên xích đạo, Ngân hà. Bên dưới là bài văn bia 209 chữ chép rõ về các kiến thức thiên văn. Cho đến triều Thanh, người Trung Hoa đã quan sát và ghi lại khoảng 3000 ngôi sao có cấp độ sáng từ 6 trở lên, phân thành 283 chòm sao. Khác với các chòm sao của Hy Lạp đặt tên theo các vị thần hoặc anh hùng thần thoại, các chòm sao ở phương Đông mang tên tất cả những gì thuộc về cuộc sống; từ tên các chức tước trong triều đình, tên các vùng đất, các nghề nghiệp, cho đến con vật như trâu bò, đồ vật như cái cày, cái đấu. Họ không giải thích các hiện tượng, mà chỉ đơn giản là quan sát và ghi nhận chúng, coi đó là khách quan của “Trời”. Trong khoảng thời gian từ 12 tháng 12 năm 146 TCN cho đến 3 tháng 2 năm 1761 các quan sát thiên văn liên tục của Trung Hoa đã ghi lại thời gian, đặc điểm 173 hiện tượng rất đặc biệt trên bầu trời, gồm 66 lần Nhật thực, 83 hiện tượng bùng nổ của các ngôi sao, 24 hiện tượng khác. Tất cả các quan sát đó đã được thiên văn học hiện đại kiểm chứng, và không có trường hợp nào sai lệch. Bản dập Thiên Văn đồ - 1247
Hiện tượng Nhật thực lần đầu tiên được ghi lại là vào năm 2136 TCN: “Năm thứ 5 đời Trọng Khang nhà Hạ, mùa thu, hạ tuần tháng 9, ngày Canh Tuất, có hiện tượng Nhật thực” (2) Khi có Nhật thực, người Trung Hoa tin rằng đó là do mặt trời bị ăn mất (thực - ăn), nên làm lễ cầu nguyện, cúng bái, dùng âm thanh để “xua đuổi quái vật ăn mặt trời”. Hiện tượng Nguyệt thực thường xảy ra hơn, nên cũng ít được chú ý hơn. Lần ghi chép về nguyệt thực đầu tiên là năm 1065 TCN. Sau đó họ ghi lại khoảng 1000 lần nguyệt thực nữa cho đến cuối triều Thanh. Một tài liệu đời Tây Hán (TK 2 TCN) tìm được năm 1973 ghi rõ chu kỳ của Sao Kim là 584,4 ngày, Sao Mộc là 377 ngày, Sao Thổ là 594,4 ngày, chỉ sai lệch so với kết quả tính toán hiện đại chưa đến 0,3 ngày. Đời Hán Cao Tổ, hiện tượng 5 hành tinh của Hệ mặt trời ở vị trí thẳng hàng đã được gọi là “Chuỗi ngọc 5 sao”. Vào khoảng năm 484 TCN, các tính toán cũng xác định độ dài chính xác của một năm là 365,25 ngày, là cơ sở cho việc đặt hệ thống Âm-dương lịch khá hoàn chỉnh. Hệ thống lịch này được điều chỉnh một số lần, càng về sau càng chính xác. Tuệ tinh (Sao chổi) được quan sát sớm nhất thế giới, từ năm 613 TCN. Trong một lăng mộ cổ từ thế kỷ 5 TCN được khai quật năm 1973 có cuộn lụa vẽ lại 29 ngôi sao chổi, thành quả quan sát hơn 300 năm. Trong đó có ngôi có 2 đuôi, ngôi có
đuôi thẳng và dài, có ngôi lại có đuôi móc câu. Họ cũng nhận xét là hầu hết các sao chổi có đuôi bay ngược chiều mặt trời, và cho rằng đó là Thiên khí từ mặt trời thổi ra. Ngôi sao chổi Halley xuất hiện năm 240 TCN (năm thứ 7 đời Tần Thủy Hoàng) đã quay lại vào năm 164 TCN, rồi lại được nhìn thấy vào những năm sau đó, đã giúp các nhà thiên văn Trung Hoa tìm ra chu kỳ 76 năm của nó. Thực ra quan sát thấy sao chổi đầu tiên năm 613 TCN (ghi trong Kinh Xuân thu) chính là Halley, nhưng bị gián đoạn. Quĩ đạo của hơn 40 sao chổi đã từng xuất hiện cũng được ghi lại cẩn thận trong các bản đồ cổ, đặc biệt năm 600, một sao chổi được ghi lại là “sáng như mặt trăng”. Trong toàn bộ thời phong kiến, từ thời Ân đến 1911, có 360 văn bản ghi lại sự xuất hiện của sao chổi, trong đó sao chổi Halley là 31 lần. Một quan sát đặc biệt quan trọng của người Trung Hoa đó là sao Khách – những vì sao sáng rực lên trong một thời gian ngắn rồi tối đi, giống như người khách qua đường. Ngày nay ta gọi đó là các Siêu tân tinh. Quan sát đầu tiên trên thế giới của họ được ghi lại là năm 14 TCN.
Crab Nebula ngày nay
Hiện tượng nổi tiếng nhất là vào đời nhà Tống. Ngày 4 tháng 6 năm 1054, một ngôi sao bống rực sáng trên bầu trời phía đông, thậm chí thấy rõ trong ánh sáng ban ngày suốt 23 ngày khiến người Trung Hoa kinh hoàng. Các quan khâm thiên quan sát suốt ngày đêm không nghỉ, cho đến khi nó tối hẳn vào cuối tháng 4 năm 1056, sau 643 ngày bùng nổ. Vị trí của nó ở gần Hoàng đạo và sao Tất (Zeta Taurius), ngày nay Siêu tân tinh đó được biết đến dưới cái tên Crab Nebula, và đến năm 1968 vẫn còn tiếp tục phun vật chất vào vũ trụ.
Năm 2001, các nhà thiên văn NASA đã có bằng chứng về một sao pulsar trong chòm Sagittaurius, tại đúng vị trí mà năm 386 người Trung Quốc đã ghi nhận là có hiện tượng bùng nổ của một siêu tân tinh rất lớn. Đây là ngôi sao pulsar thứ hai được tính chính xác tuổi là 1615 năm cho đến thời điểm được phát hiện. Ngoài ra, Trung Hoa cũng là nơi đầu tiên phát hiện về Vết mặt trời và ghi chép mưa thiên thạch. Quan sát đầu tiên là vào thế kỷ 4 TCN, tiếp theo là vào năm 165 TCN, vết đen được ghi lại là có hình chữ Vương, và cho đến năm 1638, họ ghi lại 112 lần hiện tượng này. Khi đó họ đoán là có ngôi sao nào đó xuất hiện trên mặt trời. Những quan sát tương tự ở châu Âu đến năm 807 mới có. Hiện tượng quầng lửa trên mặt trời cũng được quan sát thấy, họ mô tả mặt trời căng phồng lên, những đốm lửa bùng lên. Tuy vậy, trong các văn bản cổ, cũng có những sai lệch. Đặc biệt là có khoảng 10 chỗ phi lý đến đáng ngờ. Cuối cùng các nhà khoa học cũng tìm ra được nguyên nhân. Đó là sự sai lệch có chủ ý của các quan thiên văn. Khi biết vua chúa thường tin vào các điềm báo của bầu trời, họ đã cố tình sửa các quan sát của mình để trục lợi. Chẳng hạn, đời Hán Thành đế, quan khâm thiên được đút lót đã thay sao Thương vào vị trí Hỏa Tinh, và tuyên bố sắp có kẻ mưu sát vua, khiến ông vua mê tín đã xuống tay hạ sát mấy vị đại thần. Tương tự như vậy, sao Thiên Lang – vốn được coi là nơi thể hiện điềm báo – thường được gán cho các màu sắc đặc biệt để báo trước tai họa hay phúc lành, dù rằng ngôi sao sáng nhất bầu trời này không bao giờ thay đổi màu sắc. Những sai lệch này có nguyên nhân chính trị và mê tín hơn là do quan sát.
Hỗn Thiên Nhất thống Tinh tượng Toàn đồ - 1500
Việc sử dụng Thiên tượng như là điềm báo trước rất phổ biến, đặc biệt cho triều đình phong kiến, nên nó được lợi dụng không ít lần. Các hiện tượng sao Chổi, Nhật thực, sao Khách đều gây xáo trộn nhất định. Nhưng cũng vì thế mà nó được ghi chép lại rất tỉ mỉ, để lại cho đời sau những tài liệu vô giá. Cùng với các quan sát tỉ mỉ, các hệ thống công trình cũng được triều đình cho xây dựng. Đầu công nguyên, nhà Hán đã xây dựng một loạt đài thiên văn dọc theo Trường thành để đo thời gian và chuyển động của các thiên thể. Theo một số học giả thì hệ thống các đài định vị này còn mở rộng khắp đất Trung quốc, xuống tận miền nam đến Việt Nam, thậm chí cột đồng Mã Viện cũng chỉ là cột định vị của hệ thống này (Trần Đai Sĩ, 2001). Thậm chí có tài liệu viết rằng vào khoảng năm 721-725, dưới thời Đường, một hệ thống cột định vị (gnomon) được dựng theo hướng Bắc - Nam, cận nam từ tận miền Trung Việt Nam, cực bắc lên đến sát Trường Thành. Cột đồng lớn nhất được dựng năm 1276 đời Tống, cao đến 12 m. Do nhận ra chu kỳ quay tròn của bầu trời, người Trung Hoa cũng chia vòng tròn thiên cầu thành các độ, tuy nhiên độ này ứng với các ngày trong năm, nên một vòng tròn có 365 và ¼ độ. Vào đầu công nguyên họ cũng tính ra độ dài của 1 cung kinh độ là khoảng 155 km, đến đời Đường (TK 7) họ tính lại là 123.7 km (thực tế khoảng 111 km) Cũng như nhiều kiến thức khoa học, Thiên văn học cũng chịu sự tác động qua lại của các nền văn minh khác. Sự tác động sớm nhất là thiên văn Babylon, thông qua con đường tơ lụa (khoảng thế kỷ 1, 2 TCN), sau đó chịu ảnh hưởng rất mạnh của Ấn Độ, thông qua Phật giáo (đầu CN). Đến cuối TK 13 thì tư tưởng thiên văn Hồi giáo truyền vào cùng với sự bành trướng của đế quốc Nguyên Mông, và thế kỷ 16 là thiên văn phương Tây, theo chân các nhà truyền giáo. Những công trình thiên văn cổ của Trung Quốc tại Bắc Kinh còn lại ngày nay được xây dựng trong triều Minh và Thanh. Đến triều Thanh thì lịch pháp đã dựa rất nhiều vào kiến thức phương Tây, và các đài thiên văn đều có bàn tay của giáo sĩ nước ngoài. Những công trình cổ còn lại Công trình cổ sớm nhất còn lại hiện nay là đài thiên văn ở Nam Kinh, được thiết kế và xây dựng vào những năm 1231-1314 đời Tống. Cùng thời đó nhà Tống còn cho xây thêm 4 đài thiên văn nữa rải rác khắp đất nước. Thiên Văn đồ cũng được vẽ và khắc vào giai đoạn này. Sau này một số thiết bị quan trắc được dựng tại đài Nam Kinh theo bản vẽ cổ.
Đài thiên văn Nam Kinh
Năm 1442, triều đình nhà Minh cho xây tại Bắc Kinh đài thiên văn bằng đá cao 14 m, trên đó có các thiết bị bằng đồng dành cho quan sát thiên tượng, gồm các vòng tròn dựng trên giá gồm những con rồng, một cột đồng đo bóng mặt trời để tính thời gian, và một thiên cầu. Trong những năm sau đó, các thiết bị dùng để vẽ lại vị trí các thiên thể được thêm vào.
Toàn cảnh đài thiên văn Bắc Kinh
Đến triều nhà Thanh (1673), những thiết bị dùng để đo góc giữa các vì sao làm bằng đồng chạm khắc cầu kỳ được dựng thêm lên. Khung hỗn thiên gồm thiên xích đạo, hoàng đạo, và một thiên cầu đường kính hơn 1 m chạm nổi các chòm sao, dùng để mô tả chuyển động của các hành tinh, tính toán thời gian. Những thiết bị này đều có giá đỡ là những con rồng, con vật huyền thoại thống lĩnh bầu trời. Công trình này có sự góp sức rất lớn của nhà truyền giáo Ferdinand Verbiest. Ngày nay đây là điểm tham quan hấp dẫn khách du lịch. Cùng với các phát minh quan trọng như La bàn, thuốc nổ, giấy và nghề in, những thành tựu nghiên cứu về thiên văn vũ trụ, lịch pháp, dù với mục đích nào, cũng đã để lại cho hậu thế những kho tri thức vô giá. Những kiến thức đó là chung cho nhân loại chứ không riêng quốc gia, dân tộc nào. 2. NHỮNG NHÀ THIÊN VĂN CỔ ĐẠI “Mỗi người nông dân đều là một nhà thiên văn nghiệp dư” – nhận xét đó không hẳn là quá đáng đối với những kiến thức thiên văn của cư dân Hoàng Hà. Tuy nhiên, để đạt đến trình độ mà thế giới phải ghi nhận, không thể không nhắc đến công lao của những nhà thiên văn chuyên nghiệp thực thụ, mà tác phẩm của họ còn đến ngày nay. Dưới đây giới thiệu một số người có nhiều thành quả nhất. Thạch Thị (350 TCN) Những nhà thiên văn học chuyên sâu đầu tiên được thực sự ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa là từ thời
Chiến quốc (400 - 200 TCN), trong đó nổi tiếng nhất là Thạch Thân. Trong Sử Ký rằng: Thạch Thân (khoảng 350 TCN) là nhà thiên văn lịch pháp của nước Vệ, đã viết các tác phẩm gồm: Thiên văn (8 chương), Thiên Văn Chiêm (8 quyển), Thạch thị Hỗn Thiên đồ (1 quyển), Thạch thị Kinh bạc Tinh chiêm (thường gọi là Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm - 1 quyển). Tập bản đồ vẽ khoảng 800 ngôi sao chia theo 122 chòm, theo truyền thuyết thì 28 chòm đã được Vu Hàm đời nhà Thương phân định. Tuy nhiên, theo một số thuyết về sau, Thạch Thị là tên gọi chung cho một nhóm học giả thời đó chứ không phải chỉ 1 người. Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm bị thất lạc trong những thế kỷ sau, chỉ còn một số đồ hình các vì sao của nó được sao chép lại trong các thư tịch khác, mà còn giữ đến nay là Khai nguyên Chiêm kinh (thời đại Khai Nguyên nhà Đường – 729). Một bản sao khác của cuốn sách hiện được dòng họ Wakasugi ở Tokyo – Nhật Bản gìn giữ. Cách giải thích các hiện tượng của Thạch thị không tránh khỏi những hạn chế, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, chẳng hạn như đoạn sau: “Khi thiên tử sáng suốt, mặt trăng sẽ đi theo đúng hướng, khi thiên tử không minh, đại thần chiếm quyền, mặt trăng sẽ đi chệch đường”. Cùng thời với Thạch Thân là Cam Đức cũng là nhà thiên văn học, đã quan sát rất kỹ về các hiện tượng trên mặt trời, từ vết đen, vết trắng. Ông mô tả vết đen như đồng xu trên mặt trời, và giải thích Nhật thực chính là do vết đen ăn từ một phía ra, chiếm hết mặt trời.
Tư Mã Thiên
(145 – 87 TCN)
Trong tác phẩm Sử Ký đồ sộ, Tư Mã Thiên - sử gia vĩ đại, đồng thời là một nhà thiên văn, địa lý kì tài thời thời Hán Vũ đế - đã dành hẳn một quyển là Thiên Quan thư để ghi chép về thiên văn, tập hợp kiến thức từ tiền nhân cũng như của bản thân ông. Tư Mã Thiên đã liệt kê hơn 1000 ngôi sao, cũng như ghi lại các hiện tượng đặc biệt của bầu trời. Thiên quan thư của ông là tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất còn đến nay, hầu như kết quả thiên văn trước đó đều được hệ thống lại, thêm vào đó là các kiến thức của bản thân ông. Những quan sát đó cho thấy những gì đã xảy ra hơn 2000 năm trước. Có thể ông đã tham khảo các bản của Thạch thị, nhưng Tư Mã Thiên Vẽ đời Nguyên những nhận xét đánh giá riêng của ông về Thiên tượng cũng có giá trị rất lớn, chẳng hạn trong việc phân chia màu sắc các sao . Kế tục Tư Mã Thiên, thái sử Ban Cố, tác giả bộ Hán Sử, cũng là một nhà thiên văn. Chính ông là người đã tìm ra chu kỳ 76 năm của sao chổi Halley, cũng như viết về quĩ đạo của các hành tinh. Tiếp theo ông, Đổng Trọng Thư cũng để lại dấu ấn của mình qua việc đoán được hiện tượng Nguyệt thực, thông qua việc tính toán từ các văn bản giáp cốt. Cho đến cuối thời Tam Quốc (200), các nhà thiên văn đã hệ thống lại các tài liệu, ghi lại tổng cộng 1464 sao trong 283 chòm. Trương Hoành
Trương Hoành (Phóng tác)
(78 – 139)
Đỉnh cao nhân loại về Thiên văn học cổ đại là Trương Hoành, đồng thời cũng là nhà địa lý, toán học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu thiên văn, ông đã tìm ra quĩ đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời, ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng mắt thường. Những nhận định chính xác của ông về Hệ mặt trời khiến người thời đó không thể hiểu được. Ông cho rằng trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt trăng đi vào bóng của trái đất, và hình dáng tròn khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác nhau từ mặt
đất. . Trương Hoành viết hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú ông viết: “Trời tròn giống như quả trứng, mà Đất giống như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa, bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh” Còn trong tác phẩm thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí các chòm sao và viết: “Trong bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm 2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những người đi biển nhìn thấy. Kể cả những sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi”. Đặc biệt nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ quan trắc thiên văn là Hỗn Thiên Nghi. Theo Hán Sử, Hỗn thiên nghi gồm những vòng đồng có chia khoảng, một Thiên cầu bằng đồng. Đường Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo một góc 24 độ ( chỉ sai 0,5 độ so với thực tế). Một chiếc ống thẳng để nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng. Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị trí chính xác, điều mà chưa ai làm được trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt trăng và Nguyệt thực được giải thích chính xác.
Một phần ra ngoài đề một chút, là các phát minh của Trương Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên Văn học phương Tây thông thường là nhà Vật lý – Toán học, Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực khác. Một sáng chế đáng chú ý của ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm một bình đồng, có những cơ cấu nhậy với độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động, quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu. Hậu Hán thư viết lại rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yến kiến và trình với vua rằng có động đất ở phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động Dụng cụ đo Địa chấn của đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều Trương Hoành đình. Ông cũng là người đã nêu ra cách tính tỉ số pi () bằng căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại đến nay. Tổ Xung Chi (429 – 501) Tổ Xung Chi là nhà toán học và Thiên văn – Lịch pháp thời Nam Bắc triều.
Tổ Xung Chi (Phóng tác)
Ông là người đã tính toán chính xác các ngày Hạ chí, Đông chí hàng năm thông qua việc đo độ dài bóng của một cây gậy cắm thẳng đứng trên mặt đất. Từ đó hình thành cơ sở cho việc tính một loại lịch mới chính xác hơn Âm-dương lịch mà các vị vua đang dùng. Năm 462, ông đưa ra loại lịch mới, tính được độ dài năm giữa hai lần Xuân phân kế tiếp
là 365,24281481 ngày (sai lệch 50 giây so với tính toán hiện đại), và độ dài của tháng mặt trăng là 27,21233 ngày (lệch 9 giây). Ông phát hiện thấy sự tiến động của ngày Xuân phân khiến cho năm nhiệt đới ngắn hơn so với năm mặt trời thực 21 phút, cũng như thấy rằng sau 7 chu kỳ 12 năm, Sao Mộc lại dôi ra khoảng 1/20 quỹ đạo của nó. Phát hiện đặc biệt quan trọng của ông trong Toán học là cách tính bằng phân số 355/113, chính xác đến 6 số thập phân, và khá giản tiện. Sau một đo đạc chính xác khác, ông tuyên bố một vòng tròn có đường kính 10 triệu trượng thì có chu vi lớn hơn 31.415.926 và nhỏ hơn 31.415.927 trượng (tức là 3,1412516 < < 3,1415927). Tên của ông được đặt cho một ngọn núi trên Mặt trăng. Trong thời Đường, Nhất Hành là một hòa thượng, cũng được ghi nhận với kết quả tính toán độ dài một cung 1 độ trên kinh tuyến là 351,27 dặm (tương đương 123,7 km) Ông cũng dựng một thiên cầu ở Trường An, mô tả chuyển động các sao, và vẽ đường biểu kiến chuyển động các hành tinh và các ngôi sao rất xa một cách chính xác. Tô Tống Một nhà lịch pháp và thiên văn đời Tống là Tô Tống đã quan sát mặt trời, mặt trăng và các vì sao, tạo ra một chiếc đồng hồ thiên văn chạy bằng nước rất tinh xảo. Trong Tống sử, sau khi đi sứ sang phía Tây và nhận ra sự khác biệt giữa cách tính ngày rằm giữa Trung hoa và một nước khác, ông về kinh năm 1090 và chế tạo chiếc đồng hồ thiên văn ở kinh đô Biện Lương. Chiếc đồng hồ thiên văn này cao gần 10m, ở tầng trên cùng có khung Hỗn thiên nghi và thiên cầu chạy bằng sức nước, dựa trên một hệ thống cơ khí rất phức tạp bên trong, cứ mỗi giờ lại có các tượng đồng gõ chuông, thiên cầu quay theo sự vận động của mặt trời mặt trăng. Theo ghi chép thì có đến hàng chục tượng đồng, vận hành hoàn toàn Tranh cổ mô tả đồng hồ Tô Tống bằng sức nước. Tiếc rằng khi triều đại sau nối tiếp, ông vua mới đã không hiểu được ý nghĩa của phát minh trên, chiếc đồng hồ bị phá dỡ để lấy đồng. Ngày nay, ở Đài Loan vẫn còn trưng bày một phiên bản nhỏ hơn của chiếc đồng hồ Tô Tống. Nhất Hành (683 – 722) Nhất Hành là pháp hiệu của một hòa thượng đời Đường. Tại kinh đô Trường An khi đó ông cùng các đồ đệ đã dựng lên một Thiên cầu lớn được vận hành và chuyển động cùng với các thiên thể ban đêm trên bầu trời. Ông đã vẽ đường chuyển động của các hành tinh so với các vì sao khác một cách chính xác. Cho đến trước công trình của Halley năm 1718, đây là quỹ đạo chính xác nhất mà con người tìm ra Còn nhiều nhà Thiên văn – Lịch pháp nữa trong các triều đại sau, mà mỗi người đều để lại dấu ấn nhất định cho nền công việc nghiên cứu Vũ trụ, thiên nhiên. Những đóng góp của họ trong thời gian dài đã đem lại những kết quả lớn, đặc biệt trong việc tính lịch pháp. Thạch Thân: Trương Hoành:
Shi Shen Thạch thị: Zhang Heng Tổ Xung Chi:
Shi shi Tư Mã Thiên: Sima Qian Zu Chongzhi Tô Tống:
Su Song
3. NGŨ HÀNH VÀ CAN CHI Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy nhiên người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với những tư tưởng mang tính triết học, mà Ngũ hành là một minh chứng. Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5 yếu tố không phải là chỉ của riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng thế giới được sinh ra từ Vực thẳm Khaox (Chaos - Hỗn mang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối tăm Vĩnh cửu Erèbe, Đêm tối Nix, Địa ngục Tartar, và Tình yêu Erox. Triêt gia Aristole cho rằng 5 nguyên tố cơ bản của thế giới là Nước, Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không bộ 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ của Trung Hoa. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ số 10 trong hệ đếm. Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 TCN), được củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các tính chất cụ thể: Kim: kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc Mộc: gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng Thủy: nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm Hỏa: lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo Thổ: đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh sôi Nhưng rồi chúng được Triết lý hóa, trở thành Ngũ hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn kết với mọi trạng thái triết lý từ Vật chất đến tinh thần Hành Kim: Hành Mộc: Hành Thủy: Hành Hỏa: Hành Thổ:
màu Trắng màu Xanh màu Đen màu Đỏ màu Vàng
phương Tây phương Đông phương Bắc phương Nam phương Trung ương
mùa thu mùa xuân mùa đông mùa hạLưỡi (không)
Mũi Phế (phổi) Mắt Can (gan) Tai Thận Tâm (tim) Miệng Tỳ
Việc gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì đuôi của chòm sao Bắc Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về phía Tây, nên tương ứng mùa và phương. Như vậy chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác định phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa trong văn hóa Trung Hoa. Hai quy luật tương tác biến dịch quan trọng là tương sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho nhiều học thuyết (tuy nhiên sẽ không xét kỹ ở đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn) Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim - Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc. Tương Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc
Về sau tư tưởng Ngũ hành được gán cho rất nhiều ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ hành hết, chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, Ta, cái Ta sinh, cái Ta khắc,… Dựa trên tư tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng của các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến nóng) là Đen – Đỏ - Vàng – Trắng – Xanh.
Trên thực tế, các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này: Nhiệt độ bề mặt dưới 2000 độ C, sao màu đỏ tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy Nhiệt độ bề mặt 2000-5000 độ C, sao màu đỏ Nhiệt độ bề mặt 6000-9000 độ C, sao màu vàng Nhiệt độ bề mặt 10,000-15,000 độ C, sao màu trắng Nhiệt độ cao hơn nữa, hơn 20,000 độ C, màu xanh Mặt trời của chúng ta là ngôi sao trung bình màu vàng, nhiệt độ bề mặt khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ Trong Thiên Quan thư, Tư Mã Thiên viết: “Muốn xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên Lang; muốn xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng, hãy nhìn sao Sâm Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc đen thì nhìn sao Khuê“ Cách phân chia đó khá đúng về màu sắc: Sao Thiên Lang (sao Sirius - chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng chói nhất bầu trời Sao Tâm hay sao Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có quang phổ M0, màu đỏ rất rõ Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel - chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2 màu xanh. Sao Khuê (sao - chòm Andromeda) quang phổ M0 đỏ tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen.
Sao Sirius trong Canis Major (sao Thiên Lang), ngôi sao có ánh trắng xanh, sáng nhất bầu trời. Tư Mã Thiên lấy ánh sáng này đại diện cho sắc trắng.
Chòm Orion (tương ứng với Chủy và Sâm). Sao Betelgeuse phía trên bên trái, sau 2000 năm đã chuyển từ sắc vàng sang đỏ. Sao Rigel phía dưới bên phải tượng trưng cho sắc xanh.
Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong chòm Tâm, khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực không kém gì Sao Hỏa.
Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeuse – chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời, và là một trong thiên thể lớn nhất bầu trời quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là màu vàng, thì ngày nay là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người quan sát được trong lịch sử. Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên cho các hành tinh mà
họ quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành tinh này và chu kì chuyển động của chúng là cơ sở tạo nên hệ đếm Can Chi. Thiên Can Địa Chi Can Chi chủ yếu dùng trong Lịch pháp, nhưng cũng có cơ sở từ quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao, ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (TK 12 TCN), việc gán tên con vật vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực hiện. Khi quan sát quĩ đạo các hành tinh, họ lấy Bắc thiên cực làm gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái (1) để xác định tọa độ. Sau rất nhiều năm quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của mình. Một số nhận xét về chu kỳ (trở về vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh như sau: Sao Thủy: khoảng ¼ năm Sao Kim khoảng 0,6 năm Sao Hỏa khoảng 2 năm Sao Mộc khoảng 12 năm Sao Thổ khoảng 30 năm. Các nhà làm lịch đã dùng 3 hành tinh là Hỏa, Mộc, Thổ làm chuẩn, bội số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60 năm, các hành tinh trên mới có được vị trí (tương đối với nhau) gần giống như cũ. Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị trí cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kì 1 năm Âm 1 năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ 12 năm được lấy làm chuẩn để tính năm, nên gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất, gọi là Thiên Can. Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ hành và Âm Dương, thì con số 5 được chia 2, thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm 1 Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra đời còn muộn hơn Ngũ hành, và càng muộn hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công nguyên mới có. Can (cán – thân cây) gồm: Giáp – Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý Chi (cành cây), gồm: Tí – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi Trong đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính + Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy, cứ 1 âm 1 dương đổi nhau. Bản thân các từ của Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển của Cây cối:
12 Chi (Con Giáp) theo vòng từ Tý đến Hợi
(I). Giáp : nẩy mầm (II). Ất : nhú lên mặt đất (III). Bính : đón ánh mặt trời (IV).Đinh : trưởng thành khỏe
mạnh (V). Mậu : rậm rạp (VI). Kỉ : dấu hiệu hoa trái (VII). Canh : thay đổi (VIII). Tân : hoa quả mới (IX). Nhâm : thai nghén cho mùa sau (X). Quý : mầm đang chuyển hóa (1). Tý : mầm hút nước (2). Sửu : nẩy mầm trong đất (3). Dần : đội đất lên (4). Mão : rậm tốt (5). Thìn : tăng trưởng (6). Tỵ : phát triển (7). Ngọ : sung mãn hoàn toàn (8). Mùi : có quả chín (9). Thân : thân thể bắt đầu suy (10). Dậu : co lại (11).Tuất : khô úa héo tàn (12). Hợi : chết đi. Như vậy nguyên thủy các chi không phải là các con vật như mọi người vẫn nghĩ. Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con vật là những loài đã đến từ biệt khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là các con giáp, lần lượt là: Tí: Thử: Chuột Sửu: Ngưu: Dần: Hổ: Cọp Mão: Thố: Thìn: Long: Rồng Tỵ: Xà: Ngọ: Mã: Ngựa Mùi: Dương Dê Thân: Hầu Khỉ Dậu: Kê Tuất: Khuyển Chó Hợi: Trư *Riêng chi Mão thì ở Việt Nam là mèo chứ không phải thỏ
Trâu Thỏ* Rắn Gà Lợn
Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ. Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tí (I.1) cho đến hết vòng là Quý Hợi (X.12), chỉ có số chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, nên không thể có Giáp Sửu hay Quý Tuất. Trong thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng với 12 nước thời Xuân thu chiến quốc: Tí : Tề - Sửu: Ngô Việt - Dần: Yên – Mão: Tống – Thìn: Trịnh – Tỵ: Sở - Ngọ: Chu – Mùi: Tần – Thân: Vệ - Dậu: Triệu – Tuất: Tấn – Hợi 12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày. Cùng với Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư tưởng khép kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời gian đều được gắn với Can chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp”, 3600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên phải thêm triều đại cai trị tương ứng mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào. Sau khi hoàn chỉnh hệ Can Chi với chu kỳ 60 năm, người Trung Hoa gán cách tính lịch pháp này cho Hoàng Đế - vị vua thái cổ huyền thoại, người đặt ra các quy tắc cho con người, và lấy năm 2636 TCN làm năm đầu của chu kỳ này, gọi là Đại Nguyên niên, cho đến nay đã được 78 chu kỳ, hơn một Chu kỳ lớn (60 chu kỳ nhỏ).
4. CỬU DIỆU Trên bầu trời, bầu trời hầu hết là những vì sao luôn đứng yên tương đối với nhau – gọi là Định tinh hay Hằng tinh (sao - viết thường- star), và một số thiên thể chuyển động trong khoảng trời ấy – gọi là hành tinh (Sao – viết hoa - planet), rõ ràng nhất là mặt trăng và mặt trời. Trong Hệ mặt trời, cho đến nay các nhà thiên văn đã phát hiện có 9 hành tinh bao gồm cả trái đất. Tuy nhiên, bằng mắt thường chỉ có thể thấy 5 hành tinh mà thôi. Người Trung Hoa cũng đã nghiên cứu riêng những thiên thể chuyển động, và gọi chúng là Cửu Diệu. Cửu Diệu bao gồm: Thái Dương tinh, Thái Âm tinh, Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, La Hầu tinh, Kế Đô tinh; trong đó 7 thiên thể đầu tỏa sáng, được gọi là Thất Chính. I. Thái Dương (Nhật Tinh - Sun) Mặt trời, vầng Chân hỏa Thái dương ngày ngày soi sáng cũng gọi là Thái Dương Tinh. Theo quẻ của Dịch thì Thái Dương là một trong Tứ tượng, ứng vào hỏa nhiệt cực thịnh. Từ Nhật là mặt trời còn có nghĩa là Ngày. Quỹ đạo của Thái Dương trên bầu trời mà ta nhìn thấy gọi là Hoàng đạo. Lịch dựa trên mặt trời do đó gọi là Dương lịch. Thái Dương còn được gọi là vầng Kim Ô – con quạ vàng. Theo truyện cổ, xưa ở giữa Đông Hải có cây Phù Tang (1), trên có bầy 10 con quạ vàng, mỗi ngày 1 con bay từ phương Đông sang phương Tây, soi sáng thế giới. Ngày kia Đông hải bão tố, cây Phù tang bị đổ, bầy quạ bay đậu khắp trời gây nên thảm cảnh. Hậu Nghệ là thần tiễn đã bắn rơi 9 con, chỉ để lại một, chính là vầng Thái Dương ngày nay. Thái Dương tượng trưng cho sức mạnh, nam giới, luôn tràn đầy, cương mãnh, cho nóng, sáng, cực thịnh. Trên Thái Dương có cung Quang Minh, Tinh chủ là Thái Dương Tinh quân Thiên vương Đế quân, một trong những vị thần tối cao trên trời. II. Thái Âm (Nguyệt Tinh – Moon) Mặt trăng, tòa Quảng Hàn Thái Âm soi sáng ban đêm là Thái Âm Tinh, cũng là một trong tứ tượng. Trên Thái Âm có cung Quảng Hàn, Tinh chủ là Thái Âm Tinh quân Thiên vương, là một người đàn bà (tuy vậy vẫn có trường hợp là đàn ông). Lịch dựa trên mặt trăng do đó gọi là Âm lịch Mặt trăng còn gọi là Ngọc Thố - con thỏ ngọc, do những bóng đen trên đó trông giống con thỏ. Xưa kia, Hậu Nghệ sau khi bắn rơi mặt trời, đã lên làm vua và lấy Hằng Nga. Sau ông tìm được thuốc trường sinh, nhưng Hằng Nga đã lén uống hết, nên biến thành Tiên bay lên cung Quảng Hàn. Thái Âm tượng trưng cho nhu thuận, nữ giới, lúc tròn lúc khuyết, biết tiến thoái. Ngày trăng non gọi là Sóc, nghĩa là mới, khởi đầu; ngày trăng tròn gọi là Vọng, nghĩa là nhìn. Hai ngày này là thời điểm quan trọng trong lịch mặt trăng. Đường mô tả quỹ đạo Mặt trăng trên bầu trời đêm gọi là Bạch đạo. III. Thủy Tinh (Mercury)
Sao Thuỷ gần Mặt trời nhất, có sắc xanh tối nhưng rất khó nhìn thấy đặc biệt trong điều kiện thành phố hiện nay. Sao Thuỷ được gọi là Thuỷ Diệu, trông coi bởi Thuỷ Đức tinh quân và cho rằng Thuỷ hội tụ bởi 5 khí. Trong truyện cổ tích, Thủy đức Tinh quân là Cung Công, người đã đập đầu vào núi Bất Chu làm sụt vòm trời, khíên Nữ Oa phải đội đá vá lại. Vì Thủy ứng với phương Bắc nên gọi đầy đủ là Bắc thần Ngũ khí Thủy Diệu. IV. Kim Tinh (Venus) Sao Kim là hành tinh sáng nhất bầu trời vào lúc sáng sớm và trước khi trời tối. Sao Kim mang sắc Trắng được gọi là Thái Bạch. Sắc trắng của Kim ứng với phương Tây, phương của quẻ Đoài trong Bát quái, nên gọi là Tây Đoài Thất khí Thái Bạch, còn gọi là Hàm Trì Kim tinh, trông coi bởi Thái Bạch Kim Tinh là ông già họ Lý. Sao Kim còn được gọi bằng hai tên khác là Khởi Minh tinh (Sao báo trời sáng) và Trường Canh tinh (Sao báo đêm dài tới - vì vậy Thái Bạch Kim Tinh còn được gọi là Lý Trường Canh). Thái Bạch kim tinh được coi là sứ giả của trời, vì luôn xuất hiện sớm nhất, trước tất cả các tinh tú cũng như trước cả Mặt trời. V. Hỏa Tinh (Mars) Sao Hoả mang màu đỏ, là hành tinh mà thiên văn hiện đại quan tâm nhiều nhất. Màu đỏ là của phương Nam, phương của quẻ Ly là lửa trong Bát quái, và được coi là hội tụ từ ba khí, nên có tên gọi là Nam Ly Tam khí Vân Hán. Lửa Tam muội thì không gì dập nổi. Sao Hỏa chuyển động với chu kỳ chỉ gần 2 năm, chênh lệch so với trái đất không nhiều, gây nên hiện tượng là khi nhìn từ trái đất, nó lúc thì đi sang đông, lúc lại sang tây chứ không theo một chiều nhất định. Vì sự đổi thay đổi huyễn hoặc không thống nhất và khó hiểu đó, nên còn được gọi là sao Huỳnh Hoặc. Tinh chủ của Hỏa Tinh là Nam phương Tam khí Hỏa đức tinh quân chính thần, trong truyện cổ tích là Chúc Dung, người đã từng đánh bại Cung Công, lại cũng có thuyết gán La Tuyên. Trong việc xem tượng trời đoán vận mệnh, Sao Hỏa thường gắn liền với tai ương, vận hạn, có lẽ do màu đỏ của nó trên màu trời đen. Trong lịch sử Trung Hoa, việc “Sao Hỏa lâm vào địa phận sao Tâm” để mô tả điềm tai họa, đặc biệt cho vua, bởi sao Tâm tú cũng có màu đỏ. Sự kiện thời Hán Thành đế (đã viết) tin vào điềm báo Sao Hỏa lâm vào Tâm tú đã lấy đi mạng sống của một số người. VI. Mộc Tinh (Jupiter) Sao Mộc, to nhất hệ Mặt trời, mang màu xanh, ứng với phương Đông, phương Chấn theo Hậu thiên Bát quái, nên được gọi là Đông Chấn Cửu khí Mộc Đức, vì được cho rằng Mộc do 9 khí hợp lại mà thành. Sao Mộc được dùng làm chuẩn cho việc tính lịch, thông qua chu kỳ quay xấp xỉ 12 năm , vì thế còn được gọi là Tuế Tinh hay Sao Thái Tuế. Trong tiếng Hán, Nhật có nghĩa là ngày, Nguyệt có nghĩa tháng, còn Tinh có nghĩa là năm. VII. Thổ Tinh (Saturn) Sao Thổ có màu hơi vàng, được gọi là Trung Ương Nhất khí Thổ Tú. Trên thực tế, Sao Thổ cách trái đất khá xa, nên việc quan sát nó rất khó khăn. Cũng theo quan niệm ngũ hành, Thổ thuộc về trung ương, mang tính bền vững, nền tảng. Chu kỳ của Sao Thổ lại rất dài, vì thế nó được coi là chỉ được tạo nên từ 1 khí,
không nhiều biến đổi. Thổ Tinh cũng còn gọi là Thiên Can tinh, với ngụ ý nắm giữ quy luật vận động của bầu trời. VIII & IX. La Hầu Tinh & Kế Đô Tinh Đây là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời, mặt trăng bị che lấp tối đen, người Trung Hoa cho rằng do một giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thực và Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời, quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn). Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong đó hai “Sao La Hầu” đang che lấp mặt trời thiên thể che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là Rahu và Kethu. Người Trung - theo quan niệm cổ. Hoa phiên âm là La Hầu và Kế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất cứ thiên thể nào khác. Dù giả thuyết của Trương Hoành (78 – 139) về trái đất hình tròn và bóng của trái đất che lấp mặt trăng đã tíến đến chân lý, nhưng đã không được chấp nhận ngay khi đó. Các tên tiếng Phạn tương ứng: Sao Thủy - Bhuda ; Sao Kim - Sukra ; Sao Hỏa - Angaraka ; Sao Mộc Brhaspati ; Sao Thổ - Sanaiscara (hay Sani). Các tầng trời Người Trung Hoa nhận thấy rằng các hành tinh chuyển động giữa các thiên thể khác, nhưng không “va chạm” gì với nhau, nên cho rằng chúng ở trên các vòng cầu khác nhau, từ thấp đến cao tức là các tầng trời. Có 9 tầng trời – Cửu trùng thiên: Tên tầng trời
Mô tả
Chu kỳ
1. Thái Âm
Chứa Mặt trăng
1 tháng (vì thấp)
2. Thìn Tinh
Chứa Thủy Tinh
3 tháng
3. Thái Bạch
Chứa Kim Tinh
7 tháng
4. Thái Dương
Chứa Mặt trời
1 năm
5. Huỳnh Hoặc
Chứa Hỏa Tinh
2 năm
6. Tuế Tinh
Chứa Mộc Tinh
12 năm
7. Điền Tinh
Chứa Thổ Tinh
30 năm
8. Liệt Túc
Chứa các định tinh không chuyển động (các vì sao)
x
9. Tông Động
Vỏ ngoài cùng của của Trời, bao bọc tất thẩy
x
Về La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được Mặt trăng và Mặt trời, thì phải nằm thấp hơn nữa. Thế nhưng chúng lại không che bất kỳ một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung Hoa cho đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu và Kế Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói Tử vi. 4. CỬU DIỆU Trên bầu trời, bầu trời hầu hết là những vì sao luôn đứng yên tương đối với nhau – gọi là Định tinh hay Hằng tinh (sao - viết thường- star), và một số thiên thể chuyển động trong khoảng trời ấy – gọi là hành tinh (Sao – viết hoa - planet), rõ ràng nhất là mặt trăng và mặt trời. Trong Hệ mặt trời, cho đến nay các nhà thiên văn đã phát hiện có 9 hành tinh bao gồm cả trái đất. Tuy nhiên, bằng mắt thường chỉ có thể thấy 5 hành tinh mà thôi. Người Trung Hoa cũng đã nghiên cứu riêng những thiên thể chuyển động, và gọi chúng là Cửu Diệu. Cửu Diệu bao gồm: Thái Dương tinh, Thái Âm tinh, Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, La Hầu tinh, Kế Đô tinh; trong đó 7 thiên thể đầu tỏa sáng, được gọi là Thất Chính. I. Thái Dương (Nhật Tinh - Sun) Mặt trời, vầng Chân hỏa Thái dương ngày ngày soi sáng cũng gọi là Thái Dương Tinh. Theo quẻ của Dịch thì Thái Dương là một trong Tứ tượng, ứng vào hỏa nhiệt cực thịnh. Từ Nhật là mặt trời còn có nghĩa là Ngày. Quỹ đạo của Thái Dương trên bầu trời mà ta nhìn thấy gọi là Hoàng đạo. Lịch dựa trên mặt trời do đó gọi là Dương lịch. Thái Dương còn được gọi là vầng Kim Ô – con quạ vàng. Theo truyện cổ, xưa ở giữa Đông Hải có cây Phù Tang (1), trên có bầy 10 con quạ vàng, mỗi ngày 1 con bay từ phương Đông sang phương Tây, soi sáng thế giới. Ngày kia Đông hải bão tố, cây Phù tang bị đổ, bầy quạ bay đậu khắp trời gây nên thảm cảnh. Hậu Nghệ là thần tiễn đã bắn rơi 9 con, chỉ để lại một, chính là vầng Thái Dương ngày nay. Thái Dương tượng trưng cho sức mạnh, nam giới, luôn tràn đầy, cương mãnh, cho nóng, sáng, cực thịnh. Trên Thái Dương có cung Quang Minh, Tinh chủ là Thái Dương Tinh quân Thiên vương Đế quân, một trong những vị thần tối cao trên trời. II. Thái Âm (Nguyệt Tinh – Moon) Mặt trăng, tòa Quảng Hàn Thái Âm soi sáng ban đêm là Thái Âm Tinh, cũng là một trong tứ tượng. Trên Thái Âm có cung Quảng Hàn, Tinh chủ là Thái Âm Tinh quân Thiên vương, là một người đàn bà (tuy vậy vẫn có trường hợp là đàn ông). Lịch dựa trên mặt trăng do đó gọi là Âm lịch Mặt trăng còn gọi là Ngọc Thố - con thỏ ngọc, do những bóng đen trên đó trông giống con thỏ. Xưa kia, Hậu Nghệ sau khi bắn rơi mặt trời, đã lên làm vua và lấy Hằng Nga. Sau ông tìm được thuốc trường sinh, nhưng Hằng Nga đã lén uống hết, nên biến thành Tiên bay lên cung Quảng Hàn. Thái Âm tượng trưng cho nhu thuận, nữ giới, lúc tròn lúc khuyết, biết tiến thoái. Ngày trăng non gọi là Sóc, nghĩa là mới, khởi đầu; ngày trăng tròn gọi là Vọng, nghĩa là nhìn. Hai ngày này là thời điểm quan trọng trong lịch mặt trăng. Đường mô tả quỹ đạo Mặt trăng trên bầu trời đêm gọi là Bạch đạo.
III. Thủy Tinh (Mercury) Sao Thuỷ gần Mặt trời nhất, có sắc xanh tối nhưng rất khó nhìn thấy đặc biệt trong điều kiện thành phố hiện nay. Sao Thuỷ được gọi là Thuỷ Diệu, trông coi bởi Thuỷ Đức tinh quân và cho rằng Thuỷ hội tụ bởi 5 khí. Trong truyện cổ tích, Thủy đức Tinh quân là Cung Công, người đã đập đầu vào núi Bất Chu làm sụt vòm trời, khíên Nữ Oa phải đội đá vá lại. Vì Thủy ứng với phương Bắc nên gọi đầy đủ là Bắc thần Ngũ khí Thủy Diệu. IV. Kim Tinh (Venus) Sao Kim là hành tinh sáng nhất bầu trời vào lúc sáng sớm và trước khi trời tối. Sao Kim mang sắc Trắng được gọi là Thái Bạch. Sắc trắng của Kim ứng với phương Tây, phương của quẻ Đoài trong Bát quái, nên gọi là Tây Đoài Thất khí Thái Bạch, còn gọi là Hàm Trì Kim tinh, trông coi bởi Thái Bạch Kim Tinh là ông già họ Lý. Sao Kim còn được gọi bằng hai tên khác là Khởi Minh tinh (Sao báo trời sáng) và Trường Canh tinh (Sao báo đêm dài tới - vì vậy Thái Bạch Kim Tinh còn được gọi là Lý Trường Canh). Thái Bạch kim tinh được coi là sứ giả của trời, vì luôn xuất hiện sớm nhất, trước tất cả các tinh tú cũng như trước cả Mặt trời. V. Hỏa Tinh (Mars) Sao Hoả mang màu đỏ, là hành tinh mà thiên văn hiện đại quan tâm nhiều nhất. Màu đỏ là của phương Nam, phương của quẻ Ly là lửa trong Bát quái, và được coi là hội tụ từ ba khí, nên có tên gọi là Nam Ly Tam khí Vân Hán. Lửa Tam muội thì không gì dập nổi. Sao Hỏa chuyển động với chu kỳ chỉ gần 2 năm, chênh lệch so với trái đất không nhiều, gây nên hiện tượng là khi nhìn từ trái đất, nó lúc thì đi sang đông, lúc lại sang tây chứ không theo một chiều nhất định. Vì sự đổi thay đổi huyễn hoặc không thống nhất và khó hiểu đó, nên còn được gọi là sao Huỳnh Hoặc. Tinh chủ của Hỏa Tinh là Nam phương Tam khí Hỏa đức tinh quân chính thần, trong truyện cổ tích là Chúc Dung, người đã từng đánh bại Cung Công, lại cũng có thuyết gán La Tuyên. Trong việc xem tượng trời đoán vận mệnh, Sao Hỏa thường gắn liền với tai ương, vận hạn, có lẽ do màu đỏ của nó trên màu trời đen. Trong lịch sử Trung Hoa, việc “Sao Hỏa lâm vào địa phận sao Tâm” để mô tả điềm tai họa, đặc biệt cho vua, bởi sao Tâm tú cũng có màu đỏ. Sự kiện thời Hán Thành đế (đã viết) tin vào điềm báo Sao Hỏa lâm vào Tâm tú đã lấy đi mạng sống của một số người. VI. Mộc Tinh (Jupiter) Sao Mộc, to nhất hệ Mặt trời, mang màu xanh, ứng với phương Đông, phương Chấn theo Hậu thiên Bát quái, nên được gọi là Đông Chấn Cửu khí Mộc Đức, vì được cho rằng Mộc do 9 khí hợp lại mà thành. Sao Mộc được dùng làm chuẩn cho việc tính lịch, thông qua chu kỳ quay xấp xỉ 12 năm , vì thế còn được gọi là Tuế Tinh hay Sao Thái Tuế. Trong tiếng Hán, Nhật có nghĩa là ngày, Nguyệt có nghĩa tháng, còn Tinh có nghĩa là năm. VII. Thổ Tinh (Saturn) Sao Thổ có màu hơi vàng, được gọi là Trung Ương Nhất khí Thổ Tú. Trên thực tế, Sao Thổ cách trái đất khá xa, nên việc quan sát nó rất khó khăn. Cũng theo quan niệm ngũ hành, Thổ thuộc về trung ương, mang tính bền vững, nền tảng. Chu kỳ của Sao Thổ lại rất dài, vì thế nó được coi là chỉ được tạo nên từ 1 khí, không nhiều biến đổi. Thổ Tinh cũng còn gọi là Thiên Can tinh, với ngụ ý nắm giữ quy luật vận động của bầu trời. VIII & IX. La Hầu Tinh & Kế Đô Tinh
“Sao La Hầu” đang che lấp mặt trời - theo quan niệm cổ.
Đây là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời, mặt trăng bị che lấp tối đen, người Trung Hoa cho rằng do một giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thực và Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời, quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn). Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong đó hai thiên thể che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là Rahu và Kethu. Người Trung Hoa phiên âm là La Hầu và Kế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất cứ thiên thể nào khác. Dù giả thuyết của Trương Hoành (78 – 139) về trái đất hình tròn và bóng của trái đất che lấp mặt trăng đã tíến đến chân lý, nhưng đã không được chấp nhận ngay khi đó.
Các tên tiếng Phạn tương ứng: Sao Thủy - Bhuda ; Sao Kim - Sukra ; Sao Hỏa - Angaraka ; Sao Mộc Brhaspati ; Sao Thổ - Sanaiscara (hay Sani). Các tầng trời Người Trung Hoa nhận thấy rằng các hành tinh chuyển động giữa các thiên thể khác, nhưng không “va chạm” gì với nhau, nên cho rằng chúng ở trên các vòng cầu khác nhau, từ thấp đến cao tức là các tầng trời. Có 9 tầng trời – Cửu trùng thiên: Tên tầng trời
Mô tả
Chu kỳ
1. Thái Âm
Chứa Mặt trăng
1 tháng (vì thấp)
2. Thìn Tinh
Chứa Thủy Tinh
3 tháng
3. Thái Bạch
Chứa Kim Tinh
7 tháng
4. Thái Dương
Chứa Mặt trời
1 năm
5. Huỳnh Hoặc
Chứa Hỏa Tinh
2 năm
6. Tuế Tinh
Chứa Mộc Tinh
12 năm
7. Điền Tinh
Chứa Thổ Tinh
30 năm
8. Liệt Túc
Chứa các định tinh không chuyển động (các vì sao)
x
9. Tông Động
Vỏ ngoài cùng của của Trời, bao bọc tất thẩy
x
Về La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được Mặt trăng và Mặt trời, thì phải nằm thấp hơn nữa. Thế nhưng chúng lại không che bất kỳ một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung Hoa cho đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu và Kế Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói Tử vi. 6. NHỊ THẬP BÁT TÚ
Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải nằm giữa con đường mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban ngày được phân chia theo 28 chòm – 28 Tòa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất. Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đã được tìm thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào thế kỷ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết về các chòm. Nhưng việc phân chia thành các cung theo Ngũ hành thì phải đến đời Tần mới có, và việc gán tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lưu ý là trong kinh điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các chòm không trùng nhau, nhưng trong mối quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng được gọi chung là Nhị thập bát Tú. Quanh Thiên Cực được quy ước chia làm 4 phương Đông Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng được chia là 4 cung, mỗi cung 7 chòm, đó là: Thanh Long – Rồng xanh - phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm: Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ. Bạch Hổ - Hổ trắng - phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm: Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm. Chu Tước – Chim đỏ - phương Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm: Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn. Huyền Vũ – Rùa, rắn đen (1) – phương Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm: Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy – Thất – Bích. Nếu xếp theo vòng Đông – Tây – Nam – Bắc thì như vậy. Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh Long – Chu Tước – Bạch Hổ - Huyền Vũ. Tuy nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo vòng vận động trời đất là Đông – Bắc – Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Nguy – Thất – Bích – Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn. Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên gọi tắt như trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có con người (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc (phòng, tường, giếng,…,), có cả các khái niệm (gốc, hư,…). Dường như không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tư duy phóng khoáng không gò bó cổ đại. Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt - Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn khổ quy luật vào đây. Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại. Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với người Trung Hoa. Có học giả cho rằng thời cổ đại người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo nhiều hơn. Các chòm này có số sao không giống nhau, ít nhất là 2 và nhiều nhất là 22, nằm trong phạm vi những chòm sao khác nhau của Thiên văn phương Tây. Bản dưới đây là tên đầy đủ, số sao, và thống kê đối chiếu với các chòm phương Tây.
Ý
TT
Khu
Tên
vực
Hán
Tú
N Thất g C h hí ĩ nh a
Tên đầy đủ
Con
Số sao Tương ứng
vật
Chủ tinh
Giác
1
M ộ c Sừng G i ả o
Giác
Sao Mộc
Cá sấu
Spica
2 Virgo
Cang
Cang Kim Long
Cổ
Sao Kim
Rồng
4
Đê
Đê Thổ Lạc
Gốc rễ
Sao Thổ
Nhím
4
Phòng
Phòng Nhật Thố
Phòng
Mặt Trời
Thỏ
4
Tâm
Tâm Nguyệt Hồ
Tim
Mặt Trăng
Cáo
3
6
Vĩ
Vĩ Hoả Hổ
Đuôi
Sao Hỏa
Hổ
8
7
Cơ
Cơ Thuỷ Báo
Giỏ
Sao Thủy
Báo
4
2
Đẩu
Đẩu Mộc Giải
Đấu
Sao Mộc
Giải
6
Ngưu
Ngưu Kim Ngưu
Trâu
Sao Kim
Trâu
6
Nữ
Nữ Thổ Bức
Nữ
Sao Thổ
Hư không
Mặt Trời
2
Đông
3 Thanh Long 4
5
Mùa Xuân
8 Bắc 9 Huyền Vũ 10 11
Mùa Đông
Hư
Hư Nhật Thử
Libra
2
Scor-pius
Sagittarius
Capriconus
Antares
Aquarius Dơi
3
Chuột
2
12
13
14
15
16
Ngụy
Nguỵ Nguyệt Yến
Mái
Mặt Trăng
Én
3
Thất
Thất Hoả Trư
Nhà
Sao Hỏa
Lợn
2
Bích
Bích Thuỷ Dư
Tường
Sao Thủy
Cừu
2
Khuê
Khuê Mộc Lang
Chân Bước
Sao Mộc
Sói
16
Lâu
Lâu Kim Cẩu
Đai
Sao Kim
Chó
3
Vị
Vị Thổ Trệ
Bụng
Sao Thổ
Trĩ
3
41
Mão
Mão Nhật Kê
Lông
Mặt Trời
Gà
7
Pleiades
Tất
Tất Nguyệt Ô
Lưới
Mặt Trăng
Quạ
8
Chủy
Chuỷ Hoả Hầu
Mỏ rùa
Sao Hỏa
Khỉ
3
Sâm
Sâm Thuỷ Viên
3 Vì sao
Sao Thủy
Vượn
7
Tỉnh
Tỉnh Mộc Hãn
Giếng
Sao Mộc
Bò
8
Gemini
Quỷ
Quỷ Kim Dương
Quỷ
Sao Kim
Dê
5
Cancer
Liễu
Liễu Thổ Chương
Cây liễu
Sao Thổ
Sao
Mặt Trời
Tây 17
18
Bạch Hổ
19 Mùa 20
Thu
21
22 Nam 23
24
Chu Tước
25
Tinh Mùa
Tinh Nhật Mã
Aquarius/ Pegasus
Pegasus
Andromeda
Aries
Taurus
Orion
Hydra Cheo
8
Ngựa
7
Trương Trương Nguyệt Lộc
26
27
Giăng lưới
Mặt Hươu Trăng
6
Dực
Dực Hoả Xà
Cánh
Sao Hỏa
Rắn
22
Crater
Chẩn
Chẩn Thuỷ Dẫn
Xe
Sao Thủy
Giun
6
Corvus
Hạ 28
1
Trong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phương vị ngược với mặt đất). Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là chủ tinh. Đường màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đường cong màu xanh là Hoàng đạo. Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân
Chòm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông
Chòm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu
Chòm Chu Tước – phía Nam, mùa Hạ
Việc phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và người Trung Hoa không muốn thay đổi những kiến thức của người đi trước, nên họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 chòm có một cái tiện lợi là xác định đường đi của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện. Trước hết là các chòm không chiếm những cung bằng nhau; có cung như Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3 độ. Điều này là do độ lớn các chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có chòm như Chủy gần như nằm lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính khoa học. Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị thập bát tú. Các chòm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng trưng cho tất cả các vì sao trên bầu trời. Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các chòm sao, và khi sang Trung Quốc, được các hòa thượng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống bản địa. Nhị thập bát tú đã đi vào Văn hóa của Trung Quốc và các nước Hán hóa, mang nhiều ý nghĩa Văn hóa. Chẳng hạn chòm sao Khuê tượng trưng cho Văn học, và ở Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê) tượng trưng cho vẻ đẹp, cao quý của văn học, trong chòm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải chòm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn học. Nhà Đường lập thư viện hoàng cung đặt tên là Đông Bích phủ. Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 người cũng mang tên các chòm sao. Hoặc như Mão cũng tượng trưng cho ánh sáng, vì gà báo trời sáng. Trong hình tượng truyền thống Trung hoa, Tinh chủ của các Tú là các vị thần mang đặc tính của các con vật, hay đúng hơn là con vật mang hình người, khi cần họ có thể biến thành các con vật tương ứng dễ dàng. Các Tú trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhị thập bát tú không chỉ phát triển trong đời sống văn hóa, mà còn đi vào tôn giáo. Hơn thế nữa, nhị thập bát tú đi vào đời sống, đến mức khi nói đến vật cứng rắn thì ví với sừng của Cang Kim Long, nói đến chỗ rộng mà trống thì ví với Hư Nhật Thử. Mỗi tú còn gắn với Ngũ hành, kết hợp tạo nên những phạm trù đặc biệt. Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng tương ứng với mạch vận động 1 chu trình trong cơ thể con người. (1) Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế (Còn các danh xưng khác là Thượng đế Tổ sư, Đãng ma thiên tôn, Hỗn nguyên Giáo
chủ, Bắc Cực Huyền linh đại đế) có hai con vật thiêng là Linh Quy, Thần Xà, tượng trưng cho Trường tồn và Trí tuệ. Vì vậy chữ Vũ trong Huyền Vũ ở đây với nghĩa Sức manh là gồm cả Rùa và Rắn, tiếng Anh còn dịch là Warrior. Tú hsiu (mansion) Thạch Thân: Shi Shen Cam Đức: Gande Vu Hàm: Wu Xian Tư Mã Thiên: Sima Qian Sử Ký: Shiji Trương Hoành Zhang Heng Tổ Xung Chi: Zu Chongzhi, Tsu Ch'ung Chi, Cui Zhongji Tô Tống: Susong Nhất Hành: Yi Xing Hỗn Thiên: Hu tian Tam Viên: Three Enclosures Tử Vi: Purple Forbidden Enclosure Thái Vi: Supreme Palace Enclosure Thiên Thị: Heavenly Market Enclosure. Nhị thập bát tú: 28 Mansions Bắc Đẩu: Big dipper Thanh Long: Green Dragon – Azure Dragon Bạch Hổ: White Tiger Chu Tước: Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird, Huyền Vũ: Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise Bát Quái: Ba Gua, Eight Trigrams, Tiên thiên: Earlier Heaven, Primal Arrangement – Hậu thiên: Ater Heaven, Inner World Arrangement 7. THIÊN CƯƠNG ĐỊA SÁT Tam Viên 60 chòm hơn 220 sao, Nhị thập bát Tú hơn 160 sao, còn lại hàng ngàn vì sao khác được nhóm thành các chòm và một số sao độc lập. Các chòm này được gọi chung là các chòm Thiên Cương tinh và Địa Sát tinh. Để cho đẹp đẽ con số và phù hợp với cơ số 9 vốn được coi là cơ số hoàn thiện của trời đất, người ta thường nói là 36 Thiên cương và 72 Địa sát. Thực tế số lượng các chòm sao lớn hơn thế, và cũng không phải chỉ đặt tên với chữ Thiên hoặc Địa. Chẳng hạn trong cung ứng với Giác có các chòm Bình tinh, Nam môn; trong cung Cang có các chòm sao Trụ, Thiên điền; trong cung Đê có Dương môn,…, rồi các sao Văn nhân, Lão nhân, các chòm Cửu đài, Nhị sư, Bắc khách sư môn,…, khắp trời. Tuy nhiên các chòm sao dù có sáng đến đâu nhưng không nằm ở vị trí có ý nghĩa hình học hoặc dùng để phân định vị trí, các cung,…, thì cũng không được dùng nhiều. Chẳng hạn sao Thiên Lang sáng nhất bầu trời, Ngưu Lang và Chức Nữ cũng rất sáng, nhưng không nằm trong khu vực đặc biệt nào, nên cũng không được vẽ trong các bản đồ. Những sao đó có vị trí đặc biệt trong chiêm tinh hơn là trong ghi nhận thiên văn khoa học. Như sao Thiên Lang được ghi lại trong Lịch sử Trung Hoa có rất nhiều lần biến đổi màu sắc, khi thì xanh, khi thì vàng, khi lại đỏ, rồi có sừng, có tia,…, nhưng sự thực là nó không bao giờ đổi màu. Đó chẳng qua là sử sách gán cho nó vai trò điềm báo trước, nên trong những thời kỳ biến động của lịch sử, nó được viết cho phù hợp, cũng giống như việc khi có vua thánh ra đời thì rồng vàng xuất hiện vậy.
Nhị thập bát tú: 28 Mansions Bắc Đẩu: Big dipper Thanh Long: Green Dragon – Azure Dragon Bạch Hổ: White Tiger Chu Tước: Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird, Huyền Vũ: Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise
Phần II. Vũ trụ quan Phương Đông Có lẽ từ Vũ Trụ đã quen thuộc với mọi người, được dịch ra là Universal, là khái niệm Toàn thể. Đây là từ Hán, xuất hiện trong Đạo Đức Kinh: “Cái có thực mà không xác định được nơi chốn thì gọi là Vũ, cái lâu dài mà không truy được nguồn gốc thì gọi là Trụ”. Như vậy Vũ là Không gian vô tận, Trụ là thời gian Vô tận. Những từ Càn Khôn, Thiên Địa, Trời Đất chỉ thể hiện phần nào khái niệm của Vũ trụ mà thôi. 8. NHỮNG TRUYỀN THUYẾT Thần thoại về Khai thiên Lập địa của Trung Hoa có nhiều, và không thống nhất. Tại đây chỉ nêu tư tưởng qua một số truyện mà thôi. Khởi thủy Thế giới Hãy nghe huyền thoại Bàn Cổ mở mang “Giữa khoảng mênh mông hỗn độn, mờ mịt chưa phân, như lòng trắng lòng đỏ trứng gà, có một người là Bàn Cổ, lấy cái khí trong mà nhẹ bên trên tạo thành trời, cái đục mà nặng bên dưới tạo thành đất. Bàn Cổ mỗi ngày biến đổi chín lần, mỗi ngày cao thêm một trượng, trời cao thêm chừng ấy và đất dầy thêm chừng ấy. Ông sống một vạn tám ngàn năm, thì trời cao lắm và đất dày lắm. Khi ông chết, hai mắt thành mặt trời mặt trăng, nước mắt thành sông, mỡ thành biển cả, thân thể thành núi non, râu tóc thành cây cối…” Và những dòng đầu tiên của câu truyện nổi tiếng Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân: “Từng nghe số của trời đất, gồm một trăm hai mươi chín nghìn sáu trăm năm (129,600) gọi là một Nguyên, chia làm 12 Hội là: Tí Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi; mỗi Hội là một vạn tám trăm năm (10,800). Khi đó vào cuối hội Tuất là lúc tất cả tối tăm mờ mịt. Sang đến hội Hợi tất cả còn hỗn độn, chưa phân chia. Trải năm nghìn bốn trăm năm (5400), hội Hợi sắp hết quay lại từ đầu, chuyển sang hội Tý, mới dần dần tách biệt. Sang hội Tý, trời đất bắt đầu có rễ, Âm Dương giao hoà thành gốc của vạn vật.
Trải 5400 năm, đúng giữa hội Tý, những thứ nhẹ trong bay lên thành Trời, tạo ra Nhật Nguyệt Tinh Thần tức là Tứ Tượng. Cho nên nói Trời mở ở Tý. Trải qua 5400 năm, hội Tý sắp hết, dần sang hội Sửu, đất dần dần ngưng kết. Lại trải qua 5400 năm, đúng giữa hội Sửu, những thứ nặng đục ngưng xuống tạo ra Nước, Lửa, Núi, Đá, Đất gọi là Ngũ hình, cho nên nói Đất (Khôn) mở ở Sửu. Lúc này giao hoà Âm Dương mà sinh ra Bát quái: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài. Lại qua 5400 năm, đúng vào hội Dần, sinh Người, sinh Thú, sinh Chim, gọi là Tam Tài. Cho nên nói Người sinh ra ở Dần. Khi đó thế gian có 4 châu lớn là Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lư châu.” Truyện Bàn Cổ hoàn toàn hoang đường, nên chỉ được coi như truyện cổ tích. Còn quan niệm như trong Tây Du Ký mô tả mới được coi là chủ đạo về tạo lập thế giới của người Trung Hoa. Theo đó Quan niệm về sự hình thành của vũ trụ rất rõ ràng: Tự nhiên vận động mà thành, không có một Đấng sáng thế nào tạo ra. Tự nhiên hay còn gọi là Trời, Tạo hóa, là hằng tồn, bất biến, nhưng không phải là người. Chính vì thế đã có ông vua đời Thương mang cung tên ra bắn Trời, hoặc dân chúng oán trách trời. Điều đặc biệt là trước khi có Nguyên hiện tại (sinh ra Trời Đất) thì trong thuyết đó đã đề cập đến một Nguyên trước đó rồi, mà dòng đầu tiên, “cuối hội Tuất”, tức Hội Tuất của Nguyên trước đó. Như vậy trước khi hình thành thế giới này, đã từng có “một cái gì đó”, nhưng rồi hỗn độn, để phân chia trở lại, thành Trời Đất hiện tại. Vào thời kỳ nhà Thương, người Trung Hoa đã không coi có một Đấng Thượng đế tối cao Sáng tạo là người hữu hình, nguyên thủy nữa. Đời sau đặt Vua cho Trời, đó là Ngọc Hoàng Đại đế, hay Thiên hoàng Thượng đế. Nhưng Ngọc Hoàng vốn chỉ là Người, đã tu hành tới 1550 kiếp, nắm giữ được quy luật của thiên nhiên, mà lên Thiên đình làm vua. Tất cả các thần thánh đều từ con người, hoặc sinh vật chuyển hóa. Không ai trong số đó có khả năng tạo ra thế giới như trong Kinh thánh Kitô giáo. Thậm chí một con khỉ như Tôn Ngộ Không cũng đòi cướp cái ngôi vị ấy, làm vua bầu trời. Con khỉ đó là sản phẩm của tự nhiên, khi có khả năng nhất định là có quyền đòi làm vua, chứ không có quyền đòi sáng thế. Ngọc Hoàng Thượng đế có khả năng chi phối, điều khiển một số hiện tượng tự nhiên, nhưng không thể tiêu diệt tự nhiên được như ngày Tận thế do Thiên Chúa giáng xuống trong Kitô giáo được. Trong quan niệm cổ, người Trung Hoa chia Thế giới làm 3: Thượng nguyên là Trời, Trung nguyên là Đất, Hạ nguyên là Biển. Đất nước của họ nằm giữa Thế giới nên cũng chính là Trung nguyên, chia ra ngũ phục, ra bốn phía là chốn hoang vu và bao quanh là Biển, gồm 4 Đại hải Đông tây nam bắc. Thực ra họ không bao giờ gặp được biển phía Tây, vì đi mãi là gặp sa mạc. Nhưng rồi cái thế giới quan đó bị lung lay khi có sự giao thoa với các nền văn hóa phía Tây như Babylon và Ấn Độ. Họ dần nhận ra miền đất giữa hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang) không hoàn toàn là trung tâm thế giới. Đến khi có Phật giáo du nhập từ Ấn Độ, quan niệm được mở rộng hơn, Thế giới có 4 Đại bộ châu, Trung Quốc chỉ ở Đông Thắng Thần châu mà thôi, và bên dưới đất còn có Địa ngục là cõi để luân hồi. Con người trong Vũ trụ Những Người đầu tiên là ai. Có nhiều thuyết. (1). Bàn Cổ Thuyết phổ biến nhất là Bàn Cổ, như đoạn đầu đã viết. Theo thuyết này, Bàn Cổ là Thiên hoàng, rồi đến Địa hoàng, Nhân hoàng. Sau đó mới có các họ Hữu Sào,
Toại Nhân, rồi đến Ngũ đế. Hữu Sào có nghĩa là Có tổ, tức làm tổ trên cây, con người thoát khỏi thuở hồng hoang. Toại Nhân là giống người biết làm ra lửa. Lửa chính là phát minh vĩ đại nhất thời tiền sử của con người. Lửa là công cụ, vũ khí, là biểu tượng văn minh của loài người Nhưng Tam hoàng cũng có thể là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, còn Ngũ Long, Hữu Sào, Toại Nhân là tam Vương. (Tam vương Thái cổ khác với Tam vương Thượng cổ là Thành Thang, Văn vương, Vũ vương đời Thương Chu). (2). Phục Hi và Nữ Oa. Phục Hi và Nữ Oa vừa là anh em vừa là vợ chồng hoặc là hai nửa của một bản thể, là Vô thượng Nhân tổ phụ và Nhân tổ mẫu. Tự họ sinh ra trên thế gian, không có ai trước họ. Phục Hi khởi thủy mang hình rồng, Nữ Oa khởi thủy mang hình rùa, hoặc cả 2 có chung 1 thân con rắn. Từ đó sinh ra nhân loại. Tiếp theo sau họ Phục Hi (Phục Hi thị) là họ Thần Nông (Thần Nông thị) rồi đến Hoàng đế là Tam hoàng. Sau nữa mới đến Ngũ đế (*)
Phục Hi-Nữ Oa giữa các chòm sao. Tranh đời Đường, TK 7-8
(3). Bàn Cổ và Nữ Oa. Thuyết nói rằng Nữ Oa được sinh ra từ Bàn Cổ, và rồi lại cùng Bàn Cổ sinh ra nhân loại. Các thuyết đều chỉ là truyền thuyết, không quan trọng bằng tư tưởng không có đấng sáng thế, chỉ có tự nhiên vận động mà thành là cốt yếu, khác hẳn với khái niệm Đấng sáng thế phương Tây. Khái niệm Thượng đế do đó cũng chỉ mang ý nghĩa một vị vua trên trời cao, chứ không phải là đấng Toàn năng, toàn quyền, Sáng thế (Creator, Almighty). Vũ trụ không có Đấng ngự trị nào cả. Dù ai là thủy tổ, thì người Trung Hoa cũng vẫn coi trọng nhất 3 vị Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế. Ba vị được tôn là Khai thiên Tịch địa Thái hạo hoàng Thượng đế, tức các vị vua tối cao mở trời định đất, là khởi thủy của văn minh con người. Như vậy vai trò của họ còn cao hơn Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua trời xuất hiện về sau. Phục Hi – ngửa đầu nhìn tượng trời, cúi đầu xem thế đất, soi lấy cái thần minh của tạo hóa mà định ra Bát quái, làm cơ sở cho thế giới quan Trung hoa, dạy con người săn bắt, hái lượm; đại diện cho giai đoạn con người tìm hiểu nhận thức và khái thác tự nhiên. Phục Hi còn gọi là Thái Hạo, tức rất sáng suốt, chói lọi. Thần Nông – dậy cho dân biết nuôi trồng, cầy cấy, đi nếm từng loại lá cây để làm thuốc, đại diện cho giai
đoạn con người chinh phục tự nhiên, sản xuất nông nghiệp, cùng với việc dùng thuốc từ thiên nhiên. Hoàng Đế - còn gọi là Hiên Viên, làm ra trang phục (Phục Hi, Thần Nông chỉ dùng lá cây che thân), định ra các luân lý, pháp luật, nghiên cứu cơ thể để trở thành Y thuật, với cuốn Hoàng đế Nội kinh làm căn bản. Hoàng đế đại diện thời đại này xã hội đã hình thành chặt chẽ, các giá trị văn hóa được xác lập, các mối quan hệ xã hội dần được chuẩn hóa. Hoàng đế được coi là tổ của người Hán. Ba vị vua thượng cổ thuộc về truyền thuyết, nên việc gán thời đại Phục Hi 2852 TCN, Thần Nông 2737 TCN, Hoàng Đế 2697 TCN không mang nhiều ý nghĩa. Quan trọng hơn là việc hình tượng hóa sự xây dựng nền văn minh, mà về nhận thức tự nhiên thì Phục Hi đóng vai trò quan trọng nhất, là ông tổ của thế giới quan phương Đông. Hình dạng Vũ trụ Nữ Oa là Cửu Thiên Huyền Nữ, một vị nữ thần tổ mẫu trong quan niệm cổ. Khi Cung Công và Chúc Dung (thần nước và lửa) đánh nhau, Cung Công thua đã đập đầu vào núi Bất Chu là cột chống trời làm núi đổ, trời rách góc đông bắc, đất sụt góc tây nam, thế gian nguy khốn. Nữ Oa đã luyện đá vá trời liền lại, không cần dùng đến cột chống nữa mà trời vẫn yên, đất vẫn lành. Quan niệm cho trời giống như một tấm vỏ bọc trùm lên trên mặt đất giống như một mái nhà, với cột chống kèo đỡ. Khí trong mà nhẹ bay lên, cứng rắn lại thành trời, khi đục mà nặng ngưng xuống, đọng lại thành đất. Người Trung Hoa không giải thích là bên trên trời còn gì nữa, và đất sâu đến bao nhiêu. Lúc này mới chỉ có khái niệm dưới đất là cõi của người chết, chứ chưa hẳn là khái niệm Địa ngục nơi trừng trị người chết, vốn là sản phẩm truyền từ Ấn Độ. Cũng vì mong muốn giải thích về điều này mà hình thành 3 trường phái
Phái thứ nhất cho rằng trời trùm lên mặt đất, đất phẳng dẹt, trời tròn đất vuông. Nhưng về sau thấy không khớp nhau nên cũng cho rằng đất tròn nốt. Đất được vây quanh bởi biển cả. Quan niệm này giống châu Âu trung cổ.
Phái Hỗn thiên: Khởi đầu từ Trương Hoành, cho rằng trời đất giống như quả trứng, mà Đất nằm lơ lửng bên trong như lòng đỏ, gần nhất với sự thực. Tuy nhiên do cảm thấy khó giải thích tiếp nên phái này không dám đi xa cho rằng “phía bên kia” cũng là mặt đất như phía bên này.
Phái thứ ba cho rằng trời cao vô cùng, đất sâu vô cùng, giống như biển. Các thiên thể trôi trên trời giống như sóng biển và thủy triều. Và tất cả trải đến vô cùng vô tận theo chiều ngang, không có được hình dạng xác định.
Thần thánh Tín ngưỡng phương Đông là đa thần chứ không phải độc thần như phương Tây. Tự nhiên vốn là chính nó, chỉ có những con người (hoặc thậm chí con vật, cây cối) có khả năng nhất định thì chi phối điều khiển được nó, bắt nó phục vụ theo ý của mình, chứ không thể sáng tạo ra nó cũng như tiêu diệt nó. Do đó không chỉ một mà nhiều người cùng có khả năng điều khiển một yếu tố tự nhiên. Số lượng các vị thần thánh là nhiều vô cùng. Hầu như không có vị thần nào cai quản được tất cả những gì thuộc về mình. Thủy đức tinh quân cai quản về nước, nhưng khi nước do thần này đổ ra chảy xuống rồi thì cũng không thể thu lại, mà nước lại phải lấy từ sông hồ, do các Long vương cai quản. Hỏa đức tinh quân cai quản về lửa, có các vật dụng phóng hỏa, nhưng không có quyền với lửa trong lò bát quái, lửa tam muội nhà phật. Các vị thần thánh trên trời chi phối những yếu tố thuộc về tự nhiên. Do sự du nhập của Phật giáo, rất nhiều thần thánh Trung hoa có gốc từ Ấn Độ, cũng định ra 33 tầng trời, mà vị vua là Ngọc Hoàng thượng đế, có vị trí là Thiên chủ giống như Đế Thiên Đế Thích (Indra) chứ không phải Đấng sáng tạo. Trên trời, một cơ cấu
xã hội được định ra giống như dưới mặt đất. Có các thứ bậc cao thấp, có tranh chấp, chiếm đoạt, giết chóc, cũng lấy nhau sinh con đẻ cái. Có vị thần nhỏ bé hạ tiện phải hầu hạ vị thần cao cấp hơn, thưởng phạt, thăng quan tiến chức. Chư Thần hoàn toàn là một xã hội, một xã hội tưởng tượng mà người trần mơ ước, nơi họ làm những công việc theo quyền hạn và nghĩa vụ, và không.phải lo cuộc sống vật chất. Bên cạnh thần thánh còn có bậc tiên. Đó là những người tu luyện đạt đến mức độ hòa nhập với thiên nhiên, trường sinh bất lão. Tiên không có chức vụ, tự do hơn thần nhưng cũng ít quyền lực hơn thần. Các thiên thể trên trời đều có thần thánh cai quản. Nhưng họ cũng chỉ có vai trò là người đại diện. Sự chuyển động của các thiên thể không phải do họ quyết định, mà là tự thân thiên thể đó vận hành. Đường đi của Mặt trời, Mặt trăng không phải do Thái dương, Thái âm Tinh quân thay đổi được. Khi các vị này có việc rời khỏi “mảnh đất” của mình (do Ngọc Hoàng sai bảo chẳng hạn) thì các thiên thể vẫn di chuyển bình thường. Trong cuốn truyện “Phong thần”, có thể thấy việc gán những con người vào với các thiên thể như thế nào. Vai trò các thần chỉ giới hạn ở việc cai quản sự vật với con người dưới mặt đất mà thôi. Thần thánh tiên dù là bậc trường sinh bất lão và có thể bất tử, nhưng vẫn có một khái niệm bao trùm lớn hơn là Số Mệnh. Thậm chí có thể gọi đó là Thiên Mệnh, là Trời. Đó là quy luật khách quan, cái đã vận hành sinh ra vũ trụ, mà thần thánh cũng chỉ là một bộ phận nhỏ của tự nhiên, không thể nằm ngoài quy luật đấy. Nếu Số Mệnh đã đến, thì Tôn Ngộ Không cũng có thể làm Thượng đế được. (Khi có Phật giáo truyền vào, thì mới hình thành tư tưởng vượt ngoài vòng Số Mệnh đó). Khi mới đến Trung hoa, các giáo sĩ phương Tây đã phải dùng danh xưng Thượng đế để gọi Đấng sáng tạo, sau đó mới đổi thành Thiên Chúa, để khác biệt với các vị Thượng đế vốn chỉ là các thần. Một số thần thánh quan trọng
Ngọc Hoàng thượng đế: hiệu đầy đủ là Cao Thiên thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc hoàng Đại thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế.
Trung thiên Bắc Cực Tử vi Đại đế (có người đồng nhất với Ngọc Hoàng)
Thác Tháp Lý thiên vương (Lý Tĩnh): đứng đầu về đánh trận
Tứ đại thiên vương gồm: Tăng Trường, Quảng Mục, Đa Văn, Trì Quốc, coi giữ 4 cửa trời Đông Tây Nam Bắc (4 vị này lấy từ Ấn Độ)
Cửu Diệu tinh quân: gồm Thái Âm, Thái Dương tinh chủ thiên vương đế quân và Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tinh quân Nhị thập bát Tú Tam thập lục Lôi thần
Tứ trực Công tào: Thời (giờ), Nhật (ngày), Nguyệt (tháng), Tinh (năm)
Ngũ nhạc Thiên tề Đại đế Tam thanh, Tứ đế, Ngũ lão, Lục ty, Thất nguyên, Bát Cực, Cửu diệu, Thập đô
(*) Thời Thái cổ, ngôi vị Hoàng và Đế chỉ dành cho các vị vua huyền thoại. Hai chữ này vốn có nghĩa là người được tôn quý ở bên trên (như mặt trời) và được mọi người nghe theo. Các vị Vua thời Thượng cổ Hạ Thương Chu xưng là Vương, Chữ Vương gồm 3 vạch ngang và 1 vạch dọc nối lại, với ngụ ý vua là người liên kết cả Trời ở trên, Đất ở dưới, và Người ở giữa. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, coi mình công vượt Tam hoàng, đức hơn Ngũ đế, nên mới ghép lại thành ngôi vị Hoàng đế. Ngoài ra trong nghĩa cổ, Hậu cũng có nghĩa là vua, sau mới dành riêng để gọi phụ nữ.
9. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG Sự vận động của tự nhiên tuân theo quy luật nào, vận động như thế nào, đó là điều người Trung Hoa tìm hiểu hàng ngàn năm và đúc kết thành một học thuyết độc đáo: Thuyết Âm Dương. Có thể nói đây là lý thuyết chủ đạo, nền tảng, lâu đời nhất, huyền bí nhất và cũng được ứng dụng nhiều nhất trong thế giới quan phương Đông. Trong phần này tôi không hề có tham vọng trình bày sâu về học thuyết này, mà chỉ đề cập những cách tiếp cận sơ đẳng, trực diện nhất ứng dụng vào thế giới quan, loại bỏ bớt yếu tố triết lý và nhân sinh quan. Hiện nay ngoài thị trường sách có hàng chục quyển phân tích sâu về nó, mỗi quyển đều vài ba trăm cho đến gần nghìn trang, tha hồ cho những ai quan tâm có thể tìm hiểu. Nguồn gốc Nhiều người đã từng đọc qua triết học phương Đông ngạc nhiên vì trình độ khái quát hóa cao của nó, và đặt ra câu hỏi là do ai nghĩ ra. Tác giả không phải chỉ là một người, mà rất nhiều bộ óc, không phải một thời điểm, mà cả một giai đoạn dài, thậm chí hàng nghìn năm. Qua một quãng thời gian dài tổng hợp, phân tích, những tư tưởng phù hợp đã để lại cho chúng ta ngày nay một tư tưởng xuất sắc.
Hà Đồ (trên), Lạc thư (dưới)
Đây là các ma phương với các số chẵn lẻ (Âm dương).
Người Trung Hoa gán nguồn gốc của thuyết Âm Dương Bát quái cho Phục Hi, vị vua Thái cổ huyền thoại. Kinh Dịch chép rằng Phục Hi thấy Long mã hiện lên ở sông Hoàng Hà, trên lưng có bức đồ hình, rồi thấy rùa thần hiện ở sông Lạc, trên lưng cũng có trang chữ. Phục Hi dựa vào đó vẽ lại thành Hà đồ Lạc thư, rồi ngửa đầu xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất, mà vẽ nên Bát quái. Hà đồ Lạc thư thực sự thế nào không ai biết, các thuyết cũng khác nhau, chẳng hạn cho Lạc thư là do vua Vũ trị thủy mới thấy. Hình vẽ các chấm đen trắng như ngày nay vẫn thường thấy là do Khổng An Quốc (cháu 12 đời của Khổng Tử) đưa ra vào khoảng năm 140-186. Thực ra đây là một ma phương Toán học, liên quan đến khoa Lý số. Nhìn vào đó mà nói để hình thành lên thuyết Âm Dương bát quái là điều không hợp lý. Có chăng là sự ngược lại: từ thuyết Âm Dương, kết hợp với tư duy số học để vẽ nên hai bức của Khổng An Quốc?
Tuy vậy, thuyết trên cũng làm nổi lên tư tưởng: Phục Hi phản ánh tự nhiên thông qua việc quan sát một cách cẩn trọng, khoa học, để từ đó rút ra những nhận xét và khái quát hóa thành quy luật. Riêng thời đại Phục Hi đã là một giai đoạn dài trong lịch sử. Theo các quan sát có thể nhận thấy: Theo thời gian trong ngày: sáng tối đổi nhau, nóng lạnh luân phiên Theo thời gian trong năm: nhiệt hàn thay đổi, xuân hạ thu đông nối tiếp không dừng Xét trong muôn loài: có đực có cái, có nam có nữ Vạn vật: tăng trưởng suy thoái, lớn lên nhỏ đi, trẻ khỏe già yếu Trải hàng trăm hàng ngàn năm, tư tưởng về hai mặt đối lập, tương hỗ, mâu thuẫn nhưng thống nhất, triệt tiêu mà thúc đẩy nhau, đã giúp người Trung hoa sáng tạo ra khái niệm Âm – Dương.
Âm – Dương Dương và Âm là hai mặt của một tổng thể, đối lập nhưng không thể tách rời Tượng trưng cho Dương là một vạch liền Tượng trưng cho âm là một vạch đứt Vạch Âm hay Dương gọi là một hào. (Khi tách biệt thì hay nói Dương trước Âm sau, nhưng khi gọi chung về Thuyết thì lại là Âm Dương, cũng chỉ là một thói quen). Dương mang tính sáng, nóng, động, tích cực, giống đực, phát triển, mở rộng, sự sống, thực,… Âm mang tính tối, lạnh, tĩnh, tiêu cực, giống cái, suy thoái, thu hẹp, cái chết, hư… Khi yếu tố này thịnh thì yếu tố kia suy và ngược lại. Điều đặc biệt là trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Không tồn tại yếu tố hoàn toàn Dương hoặc hoàn toàn Âm, vì sẽ không thành một tổng thể hoàn chỉnh. Nếu trong một tổng thể lớn, phần mang thuộc tính Dương khác với phần mang thuộc tính Âm. Nhưng khi tách thành từng bộ phận thì mỗi phần lại là một tổng hòa Âm Dương mới. Giống như cục nam châm có 1 đầu Nam, 1 đầu Bắc. Nhưng khi chặt đôi thì mỗi phần lại có cực Nam cực Bắc riêng, chứ không có phần toàn cực Nam và phần toàn cực Bắc. Chẳng hạn nếu xét loài người là một tổng thể, thì phần Dương là Nam giới, Âm là Nữ giới. Nhưng xét các cá thể Nam, thì không phải toàn Dương cả. Trong con người họ có yếu tố Âm là tinh thần, Dương là thể xác. Trong thể xác Dương thì Cơ bắp xương cốt là Dương, kinh mạch là Âm. Hoặc trong nội tạng thì lục phủ là dương, ngũ tạng là âm. Xét trong ý thức, thì Thiện là dương mà Ác là âm. Trong tri thức thì thu nhập thông tin (biết, nhớ) là dương, mà loại bỏ thông tin (quên) là âm. Cứ như vậy, Âm Dương là giao hòa tương tác, không bao giờ không tồn tại, tuy đối lập nhưng không triệt tiêu nhau, khi yếu tố này mạnh thì yếu tố kia yếu, nhưng không bao giờ suy đến cạn kiệt hoàn toàn cả. Xét về Vật lý, đơn giản có thể hình dung Dương Âm như là điện tích dương (proton), điện tích âm (electron), dương và âm là hạt và phản hạt, sóng và phản sóng, vật chất và phản vật chất. Dương và âm như là lực đẩy và lực hút, bùng nổ và đổ sụp, phát nóng sáng và nguội lạnh. Vật chất sẽ luôn có hai mặt đó tồn tại song hành, có lực đẩy sẽ có lực hút, trong đẩy có hút, có phát nóng thì cũng có nguội đi. Trong quan niệm Trung Hoa, Âm Dương là hai Khí của Vũ trụ, là hai thực thể mà cũng là động lực của tự nhiên, là hai nguyên lý tạo ra vạn vật. Tứ Tượng Âm Dương gọi là Lưỡng Nghi, là 2 nguyên lý. Từ Lưỡng nghi sẽ sinh ra Tứ tượng là 4 thể trạng, theo nguyên tắc chồng hai vạch lên nhau. Xét vạch từ dưới lên, sẽ có tứ tượng lần lượt là Hai vạch Dương, gọi là Thái Dương Dương – Âm, gọi là Thiếu Dương Âm – Dương, gọi là Thiếu Âm Hai vạch Âm, gọi là Thái Âm
Trong thiên văn tương ứng: Thái Dương : Mặt trời (Nhật): rất nóng, bầu trời sáng Thái Âm : Mặt trăng (Nguyệt): lạnh, bầu trời tối đen
Thiếu Âm : Định tinh (Tinh): không chuyển động, lạnh Thiếu Dương – Hành tinh (Thần): chuyển động trên bầu trời Vì vậy còn gọi Nhật nguyệt tinh thần là Tứ tượng, và vị trí của chúng cũng gọi là Tượng trời. Thái Dương là Dương cực thịnh, Thiếu Dương là Dương đã suy bớt, nhưng vẫn mạnh hơn Âm. Thiếu Âm là Âm đã mạnh hơn Dương, Thái Âm là Âm cực thịnh. Bốn Tượng này cũng là bốn giai đoạn của một chu trình khép kín. Trong năm, mùa xuân là Thiếu dương, khí ấm áp tăng dần; Mùa hạ là Thái dương, nóng đến cực đại; Mùa thu là Thiếu âm, khí lạnh đang về, Mùa đông là Thái âm, lạnh cực đại. Trong chu kỳ của một con người hay sinh vật: giai đoạn đầu tăng trưởng từ từ, là Thiếu dương, đến thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ (dậy thì ở con người) là Thái dương, đến cực đại khi trưởng thành toàn vẹn, rồi suy dần dần là Thiếu âm, cuối cùng là suy sụp nhanh chóng, là Thái âm. Nhưng trong Âm có dương và ngược lại. Trong mùa hè, khi nóng nực nhất vẫn có khí lạnh, trong mùa đông, khi lạnh nhất vẫn có hơi ấm. Khi con người phát triển mạnh mẽ nhất, thì hàng ngày vẫn có hàng triệu tế bào bị suy thoái và chết đi, có điều sự tăng trưởng mạnh hơn rất nhiều sự suy thoái; tương tự, trong thời kỳ già ốm, vẫn có những tế bào được sinh ra, nhưng không thắng được sự triệt tiêu. Có chăng chỉ là làm giảm quá trình suy sụp. Trong một con người, có đặc tính Dương và đặc tính âm. Nếu xét theo quan niệm hiện đại, thì mỗi con người đều được kết hợp từ nhiễm sắc thể của mẹ và của cha, đó là cái khởi nguồn Âm Dương, nhưng với sự nổi trội hơn của nhiễm sắc thể X hay Y, mà đứa trẻ sinh ra là trai hay gái. Tuy vậy trong cơ thể sẽ không bao giờ thiếu yếu tố của cả nam và nữ (hoocmon nam và nữ chẳng hạn). Khi tiếp nhận Phật giáo, bốn giai đoạn này với con người có thể được hiểu là Sinh Lão Bệnh Tử, với sự vật là Sinh Trụ Dị Diệt, với Vũ trụ là Thành Trụ Hoại Không. Tuy vậy cũng không hoàn toàn đồng nhất, vì đây là hai tư tưởng triết học của hai nền văn minh khác nhau. Như vậy Vận động là có tính khép kín, vòng tròn. Vì thế người phương Tây cho rằng triết học phương Đông có dạng vòng tròn. Bát Quái Từ Âm Dương là 2 sinh ra Tứ tượng là 4, sẽ tiếp tục nhân đôi thành 8, gọi là Bát quái. Cách biến đối chính là chồng thêm 1 quẻ nữa lên thành 3 quẻ, mỗi quẻ có thể là Âm hoặc Dương. Bát quái, tính theo vạch từ dưới lên, gồm 3 Dương, 3 vạch liền: Càn, nghĩa là Trời (Thiên): mạnh, cứng, nam 2 Dương + 1 Âm Đoài, nghĩa là Đầm (Trạch): vui vẻ Dương + Âm + Dương Ly, nghĩa là Lửa (Hỏa): sáng, sáng tạo Dương + 2 Âm Chấn, nghĩa là Sấm (Lôi): động Âm + 2 Dương Tốn, nghĩa là Gió (Phong): thuận lợi Âm + Dương + Âm Khảm, nghĩa là Nước (Thủy): sâu, hiểm 2 Âm + 1 Dương Cấn, nghĩa là Núi (Sơn): an tĩnh 3 Âm, 3 vạch đứt Khôn, nghĩa là Đất (Địa), nhu thuận, nữ
Mỗi bộ ba vạch gọi là một Quẻ (Quái). Tên các quẻ có thể do Văn vương đời Chu hoặc Chu Công đặt. Trong phần này, ta không xét sâu đến tên và ý nghĩa của các Quái, mà xem tư tưởng về sự biến đổi trong
học thuyết. Một lần nữa, Âm Dương lại thay đổi vị trí, mô tả sự vận động của vạn vật. Từ rất rất Dương đến rất rất Âm, những thay đổi được biểu hiện bằng các vạch, là một cách thể hiện hoàn hảo. Theo truyền thuyết, khi mới đặt thành Bát quái, Phục Hi vẽ các quẻ theo một vòng tròn khép kín, tính các vạch từ trong ra. Bốn hướng Đông Tây Nam Bắc ứng với bốn mùa (các hướng nhìn lên trời nên ngược với trên mặt đất, vòng quay của các mùa nguợc với chiều kim đồng hồ, là hướng quay của Vũ trụ). Các quẻ đối xứng về mặt hình học và ý nghĩa qua tâm vòng, nếu quẻ bên này vị trí này là dương thì bên kia phải là âm. Ba vạch liền đối với 3 vạch đứt, 2 đứt 1 liền đối với 2 liền 1 đứt. Như vậy các cặp đối nhau là: Càn – Khôn (Trời – Đất), Tốn – Chấn (Gió – Sấm), Khảm – Ly (Nước – Lửa), Cấn – Đoài (Núi – Đầm). Đến đời Chu (TK 12 TCN) thì Chu Văn vương vẽ theo một trật tự khác, trong đó quẻ Càn bắt đầu từ hướng Tây Bắc, và theo vòng ngược chiều kim đồng hồ lần lượt là Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn – Đoài. Lý do tại sao đặt như vậy thì không ai biết. Bát quái của Phục Hi được gọi là Tiên thiên Bát quái, Bát quái của Văn vương được gọi là Hậu thiên Bát quái, tên này thời Hán đặt ra.
Trên thực tế, cho đến trước đời Ân (cuối Thương đầu Chu), trên các di chỉ đều không thấy có hình Bát quái, nên có thể nó là sản phẩm của trí tuệ đời Chu, nhưng được gán cho Phục Hi là nhân vật thần thoại. Đồ hình Bát quái cũng là công cụ để phân định phương vị. Trong các ứng dụng, người ta thường dùng đồ hình Hậu thiên, vì vậy nói phương Chấn là nói phương Đông, và mới có thuyết Trời mở ở tây bắc, Đất mở ở đông nam. Hoặc như phương Nam trở thành phương của quẻ Ly (lửa) (.), phương Bắc của quẻ Khảm (nước), phù hợp với phương vị của Ngũ hành. Có những tác giả cố dùng Tiên thiên và Hậu thiên bát quái để giảng giải về thiên văn, bàn luận cho phù hợp với thiên văn phương Tây, nhưng không thực sự khoa học, nên không đưa ở đây. Dịch học Lúc đầu Bát quái chỉ dùng để bói toán, sau phát triển thành hệ thống Dịch, thành một nền triết học thâm thúy khó hiểu. Với 8 quẻ thì chưa diễn giải được, nên Văn Vương nhà Chu (hoặc chính Phục Hi – tùy thuyết) chồng các quẻ lên một lần nữa, 8 nhân 8 thành 64 quẻ chồng (trùng quái), mỗi quẻ 6 vạch, tổng cộng 384 hào. Đó là cơ sở cho Dịch học. Chẳng hạn: chồng quẻ Càn lên Càn sẽ là Thuần Càn. Chồng Cấn lên Càn được quẻ Đại Súc Chồng Khôn lên Càn được quẻ Thái Đi sâu vào nội dung từng quẻ có cả một bộ Kinh Dịch đồ sộ. Xin chỉ viết một số vấn đề liên quan đến thế giới quan qua những tư tưởng này. Theo Kinh Dịch, Phục Hi làm ra Bát quái, hơn 1 nghìn năm sau, Văn vương nhà Chu chồng quẻ và viết lời giải thích cho từng quẻ, tổng cộng 64 câu, gọi là Thoán Từ, nhưng ý
nghĩa quá thâm sâu. Con của Văn vương là Chu Công giải thích 384 hào, gọi là Hào từ. Thoán từ và Hào từ là kinh điển, về sau còn có Thập dực và Thoán truyện nói rõ hơn nữa ý nghĩa. Thập dực có thuyết nói là của Khổng tử, vì vậy khi bói Kinh Dịch thì cúng 4 vị: Phục Hi, Văn vương, Chu Công, Khổng tử. Nhưng có lẽ Khổng tử chỉ nghiên cứu chứ không viết gì vào Kinh dịch, Thập dực do đời sau viết ra. Thế giới quan trong Kinh dịch là nhị phân. Từ Âm Dương (2) chồng thành Tứ tượng (4) chồng tiếp thành Bát quái (8), chồng nữa thành Lục thập tứ quái (64). Thậm chí có người như Tiêu Diên Thọ chồng tiếp thành 4096 quẻ. Việc dùng các vạch liền và đứt rất tương đồng với hệ nhị phân 0 – 1 ngày nay, đặc biệt hệ nhị phân trong tin học. Trong tin học, 0 là mạch đứt, 1 là mạch liền, giống Âm và dương. Do đó có thể thấy các quẻ đơn cũng là các số đếm, bắt đầu từ 0 cho đến 7, tương tự, 64 quẻ chồng là từ 0 đến 63.
Với hệ đếm nhị phân, ngày nay ta có thể mô tả được thông tin về mọi sự vật hiện tượng. Một bức tranh số hóa cũng là chuỗi 0 – 1, một thiên thể bất kỳ cũng hình thành từ các yếu tố Có và Không các tính chất. Do đó có thể nói có thể dùng vạch Âm Dương phản ánh được mọi sự vật. Người Trung Hoa cũng dùng các trùng quái để mô tả về các tháng, hay là vị trí của trái đất trên quỹ đạo. Tháng giêng là khi Âm dương cân bằng, sang tháng hai Dương thêm 1 vạch, khí ấm tăng thêm một mức, sang tháng ba Dương thêm 1 vạch, cứ như vậy, khí Dương đầy nhất vào tháng tư, rồi khí Âm xuất hiện vào tháng năm, tăng dần cho đến tháng mười là cực đại, rồi khí Dương lại tràn lên. Đối chiếu Âm dương lịch, thì Tháng 4 âm lịch ứng với tiết Lập hạ, và tháng mười ứng với Lập đông.
Chu trình 12 giai đoạn trên không chỉ mang ý nghĩa trong các tháng, mà còn mô tả sự vận động thành rồi hủy, hủy rồi thành, thêm vào rồi bớt đi, vận động mãi không ngừng. Các hiện tượng trong tự nhiên phải chăng đều vận động theo quá trình đó. Thái Cực Âm Dương Bát quái 64 quẻ là tác phẩm từ thượng cổ đến thời Chu, nên còn gọi là Chu Dịch. Theo Chu Dịch này, nguồn gốc vạn vật, Vũ trụ là Dương Âm, Càn Khôn. Càn vận động, Khôn chứa đựng, như Cha và Mẹ, từ đó mới có mọi thứ. Âm Dương là nguồn gốc vạn vật, nên có thể nói rằng nguồn gốc của Vũ trụ là Nhị nguyên. Bản thân hai yếu tố nguyên lý đó đã là khởi thủy của mọi vật chất và biến chuyển. Nhưng đến thời Chiến Quốc hoặc Hán, quan điểm nhị nguyên đã chuyển thành Nhất nguyên khi có khái niệm Thái Cực. Trong Hệ từ thượng truyện viết “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”. Thái Cực nghĩa là hơn hết tất thảy, trước hết tất thảy, trong lòng nó chứa đựng tất cả những nguồn gốc cho sự vận động, trong nó có cả Âm lẫn Dương, nhưng là Âm Dương chưa tách biệt, mà vẫn còn nhất thể. Thái Cực là cái nguồn vô tận khởi thủy, là khí tiên thiên, linh căn bất sinh bất diệt chứa đựng Âm Dương. Hình vẽ mô tả Thái Cực là một vòng tròn gồm hai nửa, đen là Âm, trắng là Dương kết hợp chặt chẽ với nhau để hình thành nên một tổng thể. Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, Dương thịnh thì Âm suy, Âm thịnh Dương suy. Nhưng trong khi thịnh nhất của Dương thì Âm đã xuất hiện, và ngược lại. Âm thăng còn Dương giáng.
Có thể nói đây là hình ảnh súc tích nhất của Văn hóa phương Đông. Kết hợp với Bát quái, có Thái Cực đồ. Ở đây là Thái cực đồ Tiên thiên, vì sử dụng Tiên thiên bát quái. Tư tưởng về Vũ trụ đã hoàn chỉnh. Vũ trụ bắt nguồn từ Thái Cực. Vũ trụ vận hành theo cơ số 2. Thái Cực – Lưỡng Nghi – Tứ Tượng – Bát Quái - Các quẻ - Biến hóa vô cùng. 1 (= 20) 2 (= 21) 4 ( = 22) 8 (= 23) 64 (= 26) … Việc cố gán các tư tưởng Đông Tây với nhau là điều không hợp lý. Tuy nhiên khi so sánh đối chiếu thuyết này với Vật lý học hiện đại ngày nay thì có những tương đồng nhất định. Theo thuyết của Vật lý hiện đại, Vũ trụ bắt nguồn từ Big Bang, Vụ nổ Lớn. Tại thời điểm Big Bang, chỉ trong một chất điểm kích thước vô cùng nhỏ, trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn, với không gian bị uốn cong đến vô cùng, đã chứa đựng vật chất cho tất cả Vũ trụ này. Trong đó có các hạt, phản hạt, sóng, lực hút đẩy,… Đó là Thái Cực. Khi Thái Cực phát sinh, những yếu tố mang tính đối lập, điện tích âm và dương, hạt và phản hạt, sóng và phản sóng, vật chất và phản vật chất, lực hút, lực đẩy,… được giải phóng, tương ứng với Lưỡng Nghi. Vũ trụ giãn nở với một tốc độ nhanh, giai đoạn Thái dương bùng nổ, tạo ra các thiên thể. Sự giãn nở chậm dần, là giai đoạn Thiếu dương, đến một cực đại Rồi sẽ dần co lại, là Thiếu âm, cho đến thời điểm co lại cực đại, là Thái Âm. Hoặc như xét chu kỳ sống của một ngôi sao: Lúc đầu ngôi sao hình thành từ đám bụi khí co lại, tức là Thái Cực, và rồi bùng nổ, phát xạ dữ dội, bắt đầu giai đoạn Thái dương, để rồi nguội dần, qua các giai đoạn thiếu dương, thiếu âm, cuối cùng sụp đổ. Và theo thuyết của Einstein và Hawking thì nó sẽ thành một Lỗ đen, là giai đoạn Thái Âm, để rồi ta không còn nhận thức về nó được nữa vì không còn thông tin nào từ đó thoát ra. Một con người cũng như vậy. Thời điểm khi thụ thai, con người chỉ là 1 tế bào duy nhất, trong đó có yếu tố Dương của cha và Âm của mẹ, đó là Thái cực. Chỉ khi có được cả Lưỡng nghi đó, tế bào mới là một cơ thể sống hoàn chỉnh. Tế bào tăng theo nguyên tắc nhân đôi, nguyên tắc của Dịch. Trong mỗi cấu tạo nhỏ nhất của cơ thể, đều gồm yếu tố Âm dương. Trong tổng thể thì cá thể đó phải mang thuộc tính Dương hoặc Âm, nam hoặc nữ cụ thể, nhưng bản chất đều có cả hai. Yếu tố nào nổi trội hơn sẽ cho tổng thể thuộc tính nổi trội đó. Khi thay đổi giới tính, là sự thay đổi trạng thái đang có sang trạng thái đối lập. Hình ảnh của Thái Cực đồ rất giống với cách để đo các Tiết khí bằng phương pháp đo bóng mặt trời. Khi quan sát bóng mặt trời tạo bởi một chiếc cột thẳng đứng tạo ra trên mặt đất, cùng với quan sát đuôi sao Bắc Đẩu, họ phân chia vòng năm thành 24 cung ứng với 24 tiết trong năm, với 4 vị trí quan trọng là Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí. Với 6 vòng tròn đồng tâm tại chân cột, và đo bóng hàng ngày, bóng ngắn nhất vào Hạ Chí, dài nhất vào Đông Chí, nối các điểm lại, sẽ có được đồ hình bóng mặt trời, có thể đây là nguồn gốc cho Thái Cực đồ, với Âm là phần từ Hạ chí đến Đông chí.
Vô Cực Thái Cực dường như là cội nguồn đầy đủ cho Vũ trụ quan. Nhưng các nhà Dịch học không dừng lại ở đó. Khi đối chiếu với Vũ trụ quan Đạo giáo, với câu “Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật” của Lão tử, họ cảm thấy thiếu một cái gì đó. Nếu Hai là Lưỡng nghi, Một là Thái Cực, thì Đạo phải là cái có trước cả Thái Cực. Suy nghĩ về cái có trước khi có Thái Cực, trước khi có Vật chất đã khiến Chu Đôn Di đời Tống (TK 13) đề xuất thuyết: Vô Cực, hay Hư Vô. Thuyết này được chấp nhận cho đến nay.
Vô Cực đồ mô tả quá trình chuyển dịch của Vũ trụ. Từ Hư Vô – Vô Cực, không có gì, đã có tượng hình của Thái Cực – hình tròn. Thái Cực đã có trong lòng nó Lưỡng Nghi. Lưỡng nghi phân chia, chồng lên nhau để thành Tứ tượng. Trong đồ hình Tứ tượng thì có đủ cả: Lưỡng nghi ở tầng dưới, Tứ tượng tầng thứ 2, và thêm tầng 3 thì đủ Bát quái. Chẳng hạn 3 bậc đen cả là Càn; 2 bậc đầu đen, bậc 3 trắng là Đoài; bậc đầu đen, bậc hai trắng, bậc 3 đen là Ly,…, và cuối cùng Bát quái tách biệt trong đồ hình cuối. Thảo luận về Vô Cực hay Hư Vô là một chủ đề có thể gây nhiều tranh cãi. Từ tinh vân tụ lại, bùng nổ thành siêu tân tinh, một ngôi sao đỏ, và rồi co lại Vô Cực theo Chu Đôn Di – cũng thành sao lùn trắng,… như các Đạo gia, hiểu là cái nguồn mang tính tĩnh, là cái chứa đựng nhưng chưa phát lộ, khởi thủy tiềm phục. Chẳng hạn với một ngôi sao, trước khi nó thực sự hình thành thì nó vốn là các tinh vân. Tinh vân chưa phải
là sao, mà chỉ chứa đựng cái sẽ trở thành sao, là cái nguồn mà không phải vật. Chỉ khi đám bụi khí đó tụ lại, và dưới tác động của các lực, các sóng, nổ bùng thành một tân tinh, thì thời điểm đó mới là Thái Cực. Hoặc như một con người, trước khi Tinh cha gặp Noãn mẹ, thì cấu thành sự sống vốn đã có sẵn, nhưng vẫn chưa thể là vật. Chỉ khi có sự thụ tinh thì những gì tiềm phục trong nội tại Âm Dương mới giao hòa để phát lộ thành Thái Cực là tế bào khởi thủy duy nhất. Thậm chí có thể hiểu Vô Cực là không có cả các nguồn, không có những cái thường có trong bất kỳ vật nào, trong mọi nhận thức, tư tưởng. Từ cái nguồn Vô đó mới sinh Có là Thái Cực. Vô Cực là cảnh giới nguyên thủy mà khi đã là vật, đã thành, thì không thể đạt đến hoặc quay lại. Trong Vô Cực có gì? Không phải là không có, mà là không thể phản ánh được, cũng như “trước” BigBang có gì, hoặc sau Lỗ đen có gì, thì không thể phản ánh, nhận thức được, bởi lúc đó Thời gian cũng không còn hoặc bị triệt tiêu. Cùng với việc không chấp nhận Đấng sáng thế, mà coi tự nhiên tự vận động, Vũ trụ quan phương Đông mang tính khoa học và khái quát cao. Tự nhiên là cao nhất, khái niệm Trời là cái nguồn uyên nguyên vô tận của các quy luật. Các vị thánh thần huyền thoại như Phục Hi cũng chỉ tìm cách phản ánh và hội nhập vào cái nguồn đó, hiểu được nó và sử dụng nó như là con đường sống cho mình chứ không sáng tạo thêm được điều gì cho tự nhiên. Hà đồ Lạc thư do Trời gửi đến, nhưng Trời không phải là một người cụ thể nào, mà là tự nhiên vô cùng vô tận, tuy có khởi đầu nhưng biến đổi không ngừng.
Âm Dương Bát quái kết hợp với Ngũ hành: Trên: Hỏa, phương Nam Dưới: Thủy, phương Bắc Trái: Mộc, phương Đông Phải: Kim, phương Tây Giữa: Thổ, Trung ương
Như vậy, trải qua hàng ngàn năm, thuyết Âm Dương đã hình thành và phát triển để hoàn thiện như ngày nay. Thậm chí ngay đến bây giờ vẫn luôn có những học giả tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đó là một nguồn sâu rộng để tìm hiểu về Thế giới và con người. Vũ trụ quan trong Dịch học phản ánh khá đầy đủ và khoa học hiện thực mà bây giờ khoa học hiện đại vẫn đang tìm hiểu, tất nhiên là ở một tầm khái quát chứ không cụ thể rõ ràng. Thuyết Âm Dương không đứng riêng rẽ một mình. Trong quá trình phát triển, nó đã được kết hợp với các Ngũ hành, Can Chi để tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, làm nền tảng cho tư duy phương Đông.
Những nội dung cụ thể hơn của các ứng dụng được đề cập đến trong những phần sau. (*) Ma phương: Magic square: hình gồm các ô vuông có số với những quy tắc đặc biệt, chẳng hạn tổng theo tất cả các hàng, các cột, theo đường chéo đều bằng nhau. (*) Lá cờ của Việt Nam thời chính phủ Trần Trọng Kim (1940) có hình quẻ Ly gồm 1 vạch đứt ở giữa 2 vạch liền, là ngụ ý ở phương Nam. Âm Dương: Yin Yang Bát Quái: Ba Gua, Eight Trigrams, Tiên thiên: Earlier Heaven, Primal Arrangement – Hậu thiên: Ater Heaven, Inner World Arrangement Thái Cực Tai Ch’I Dịch Kinh I – Ching Xuân phân Vernal Equinox Thu phân Autumnal Equinox Hạ chí Summer Solstice Đông chí Winter Solstice Hà Đồ Ha Tu Lạc Thư Lou Shu Phục Hi Fuxi Thần NôngShennong Hoàng Đế Huangdi Đạo giáo Taoism Phong Thủy Fengshui